Nguyên lý của 60 Hoa Giáp và Ý Nghĩa Của Mỗi Năm Trong 60 Hoa Giáp

  • Viết bởi: Ngọc Phương
    Ngọc Phương Tôi là Ngọc Phương, hiện đang đảm nhiệm vị trí Content Writer cho Vạn Sự Như Ý
  • 25 Lượt xem
  • Cập nhật lần cuối 16/05/2023
  • Reviewed By Lâm Huyền Cơ
    Lâm Huyền Cơ Lâm Huyền Cơ là người yêu thích tìm hiểu các kiến thức phong thủy cổ đại, bên cạnh đó còn nghiên cứu kinh dịch và phong thủy hiện đại.

Mọi sinh vật sống trong vũ trụ đã được nhận định theo luật âm dương. Cây cỏ cũng có hoa đực hoa cái, côn trùng con kiến cũng có con cái con đực, cho đến vật dụng hàng ngày hầu như cũng dị biệt giữa đựcvà cái. Luật âm dương chi phối vũ trụ mọi sự sinh hoạt. Không gian đã có thiên là phải có địa. Thời gian càng chịu ảnh hưởng nhiều hơn. Trong bài viết sau chúng ta cùng tìm hiểu nguyên lý của 60 hoa giáp và ý nghĩa chi tiết cập nhật 2024.

Nguyên lý của 60 Hoa Giáp

Đã có mùa đông giá lạnh, phải có mùa hạ nóng hầm, mùa xuân ấm tươi, phải có mùa thu dịu tàn.
Âm dương là tinh thần, phần vật chất là ngũ hành, Thiên can là dương, Địa chi là âm. Thiên can có ngũ hành của Can, Địa chi có ngũ hành của Chi. Ngũ hành của Can có cái dương và cái âm. Địa chi cũng vậy. Âm dương ngũ hành của Can có 10 chữ rất rành mạch. Nhưng địa chi sao lại 12, thấy trội dư 2 cái Thổ (1 dương và 1 âm). 
Thấy rằng thời gian của4 thời tiết từ cái xanh tươi (xuân) đến nắng gắt (hạ) lần theo mát dịu (thu) kế tiếp lạnh lẽo (đông) rồi lại nối đến xanh tươi (xuan)... thời gian cứ quanh quẩn như thế phải mất trên 365 khoảng mặt trời đồng thời gian đêm tối.
Căn cứ theo đó đăt tên là 1 năm có 365 ngày trung bình. Khoảng thời gian này cứ cách 2 lần lại phải điều chỉnh thêm chút ít cho đúng như thời tiết luân lưu. Đó là năm nhuận dầu rằng âm lịch hay dương lịch cũng vậy(1). Một đằng tính 29 hay 30 ngày  làm một tháng (âm lịch ) một đằng lấy 30 hay 31 ngày là một tháng (trừ tháng 2  có 28 ngày) thì đến năm nhuận , một đằng lấy thêm một tháng , một đằng lấy thêm một ngày  cho vào tháng 2 là 29 ngày.
Khoảng 365 ngày căn cứtheo 4 mùa, nếu cũng lấy 10 địa chi như bên can thì chia nó lệch lạc, phải lấy thêm 2 cái thổ để ấn định  thêm 2 tháng, mỗi tháng khoảng chừng 30 ngày , tức mỗi mùa 3 tháng tròn , cứ như thế luân lưu lấy 4 mùa làm một khoảng thời gian chủ đích làm 1 năm.
Đáng lý 10 hoa giáp vào  với 12 chi sẽ thành 120 , nhưng xếp dương vào với dương, âm đứng với âm ( can và chi) nên chỉ còn con số 60 gọi là 60 hoa giáp.
Nhìn vào 60 hoa giáp từ Giáp Tí đến Quí Hợi, 2 chữ Can Chi đứng chung với nhau không khác gì một tiểu gia đình. Can đứng trên làm gốc (chồng) , chi tiếp theo là phụ (vợ). Biết rằng mỗi Can hay Chi đều có một tính chất riêng biệt là ngũ hành. Gia đình nào phu thê đầm ấm , sự nghiệp dầu lớn hay nhỏ hẳn là bước đường đời phải cứ sự tươi đẹp tương đối hơn ai, trái ngược vợ chồng xung khắc. ngày tháng trôi nổi trống đánh xuôi , kèn thổi ngược, tưởng sự bất hạnh phải lâu nhiều hơn người.
Năm tuổi căn cứ vào Can và Chi, từ Giáp đến Quí ( Can) vào với Tí đến Hợi (Chi) hẳn có sự luân phiên thay đổi, nhưng thay đổi tốt hay xấu phải phân tích cho ra nguyên lý và cũng là nguyên “ý “ của Phục Hy âm thầm chỉ dẫn kín đáo.
Theo luật ngũ hành cái gì tương sinh là tốt, tương khắc là xấu. Vậy có thể hoạch phát một nguyên tắc như:
a/ Tốt nhất:  Can sinh Chi (ví dụ tuổi Giáp Ngọ. Can Giáp ( Mộc) sinh Chi Ngọ (Hoả).
b/ Tốt thứ nhì: Can và Chi đồng hành ( Ví dụ tuổi Giáp Dần. cả 2 đều là Mộc).
c/ Tốt thứ ba: Chi sinh Can (ví dụ tuổi Giáp Tí. Chi Tí (Thuỷ) sinh Can Giáp (Mộc).
d/ Xấu tương đối: Can khắc Chi ( ví dụ tuổi Giáp Thìn. Can Giáp Mộc khắc Chi Thìn (Thổ).
đ/ Nghịch cảnh: Chi khắc Can (ví dụ tuổi Giáp Thân: Chi Thân (Kim) khắc Can Giáp (Mộc).
Năm trường hợp này chỉ là một tấm thu hình rất nhỏ của kiếp nhân sinh. Sự hên xui đã ấn định như thế đó, còn tuỳ định mệnh phác hoạ hạnh phúc (vòng lộc tốn) tuỳ vị trí an Mệnh Thân (vòng Thái Tuế bổ khuyết tư thế) , nhất là Thân ( chính đương số với vòng tràng sinh) đã khuôn xử làm được những gì để mua chuộc.
Như tuổi Ất Mùi , Mệnh ở Mùi (Thái Tuế) , Thân ở di (Tuế Phá) biết chữ ất (Mộc) khắc chữ Mùi (Thổ) là đời tất nhiên gặp nhiều bước khó khăn. Nhưng Hợi Mão Mùi là 3 tuổi được hưởng hạnh phúc (Lộc tồn của tuổi Ất) Thân ở Di (nghịch cảnh) là cung Sửu cô lập được chữ THỌ cho phụ mẫu , thì định mệnh mới ngăn cản được phần nào, nhiều hayít là do chữ Tài được mệnh điều động đến ách cung.
Tóm lại vận hạn của từng cá nhân, nguyên lý là do thời tiết. Đã có cái nóng phải có cái lạnh, đã có xanh tươi phải có vàng héo từng năm xuống đến tháng ngày giờ sinh thì đắc cách , khắc thì tai ương, phần chánh yếu là ở cái gốc (hàng can).Gốc được tưới bón hợp thời, cây được xanh tốt, gốc mà bị chặt cắt, dầu cây đương có nhiều hoa nụ tươi thắm, cũng phải úa vàng héo gục.

Ý Nghĩa Mỗi Năm Trong 60 Hoa Giáp

60 hoa giáp là 60 năm của 6 con giáp ( Giáp Tí , Tuất, Thân, Ngọ, Thìn, Dần)  nối tiếp nhau diễn chuyển bắt đầu từ Giáp Tí đến Quí Hợi. Mỗi năm mang một tên có 2 chữ. Chữ trên thuộc hàng Can, chữ dưới thuộc hàng Chi. Hai chữ hợp lại gọi là nạp âm có một hành chung khác hẳn, mặc dầu Can và Chi mỗi chữ có một hành riêng biệt.
Can có 10 chữ phân chia rành rẽ âm dương và đầy đủ ngũ hành đều nhau:
Sơ khai 

Mộc Giáp (dương) Ất ( âm)
Hoả Bính Đinh Mộc sinh Hoả
Thổ Mậu Kỷ Hoả sinh Thổ
Kim Canh Tân Thổ sinh Kim
Thuỷ Nhâm Quí Kim sinh Thuỷ

Trái lại hàng Chi có 12 chữ cũng đầy đủ âm dương ngũ hành:

Thuỷ Tí ( dương)  Hợi ( âm)
Mộc Dần Mão
Hoả Ngọ Tỵ
Kim Thân Dậu
Thổ Thìn Tuất Sửu Mùi

Cái lý dư 2 hành thổ có ý tứ trong vũ trụ bất cứ hành gì dầu là Kim hay Mộc, Thuỷ hay Hoả đều là ở trong đất mà ra. Bốn hành này luôn luôn sinh khắc để trường tồn, bởi thế mới có liên minh tam hợp cục là thế đứng của tứ chính ( Tí Ngọ Mão Dậu) để bồi đắpcho nhau củng cố ưu thế.
Vậy 12 Chi có 4 Chính 4 Sinh 4 Mộ  lập thành 4 tam hợp cục là 4 khối có tôn chỉ riêng:

SINH CHÍNH MỘ HÀNH
Thân Thìn Thuỷ
Dần Ngọ Tuất Hoả
Tỵ Dậu Sửu Kim
Hợi Mão Mùi Mộc

Một vòng của 10 can tuần tự ghép vào 12 Chi, mỗi năm thay đổi đáng lý là 10 x12 = 120 , nhưng vì luật âm dương nên chỉ có phân nửa nghĩa là dương Can chỉ đứng với dương Chi, âm Can phải ghép với âm Chi mới đúng cách.

Đã viết cái nguyên do của 10 Can và 12 Chi, mỗi năm mang một cái tên có 2 chữ kể từ Giáp Tí đến Ất  Sửu lần hồi cuối cùng là Quí Hợi. Mỗi tên có một tôn chỉ riêng là hành chung , nhưng cái hành riêng của mỗi chữ Can hay Chi  vẫn phải nhìn nhận là quan trọng.
Hai chữ Can và Chi đứng với nhau không khác gì tình cảnh của một gia đình có hoà hợp mới nên sự nghiệp, còn xung khắc nhau làm sao có hưng vượng.
Như 2 tuổi Canh Thân và Canh Dần cùng là Mộc mệnh, thật ra cảnh đề huề của mỗi tuổi một khác. Canh là Kim, Thân là Kim, cũng như cây có gốc (Can) ngọn ( Chi) đều nhau hẳn là có 1 căn bản vững chắc, dẫu không hơn người cũng không hề kém ai. Còn Canh Dần thì Can Canh ( Kim)  khắc Chi Dần (Mộc). Cây mà gốc không tải bồi cho ngọn làm sao mà sinh nở tốt đẹp cho nổi, khác gì gia đình trống đánh xuôi kèn thổi ngược.
Hai tuổi Giáp Tí và Giáp Ngọ thấy cả 2 tuổi cùng tương sinh gốc ngọn, nhưng Giáp Ngọ khác biệt bỏ xa Giáp Tí  rất nhiều. Giáp Ngọ có Can Giáp ( Mộc) sinh cho Chi Ngọ (Hoả) nghĩa là gốc nuôi ngọn là thuận cảnh. Trái lại Giáp Tí thì Can Giáp (Mộc ) được Chi Tí (Thuỷ) sinh lại tức là ngọn nuôi gốc tuy cũng là cảnh tượng sinh nhưng ngược chiều cho biết ngay Giáp Tí không có khả năng vững chắc mà sự đề huề chỉ là may mà có. Huống chi Giáp Ngọ còn tiềm tàng căn bản phồn thịnh là tam hợp Lộc Tồn của tuổi Giáp (Lộc tồn ở Dần) Thiên Lộc dành riêng chongười Dần Ngọ Tuất. Còn Giáp Tí đứng ngõ ngoài, muốn hưởng Lộc Tồn phải là Canh Tí (Canh Kim sinh Tí Thuỷ và Thân Tí Thìn là tam hợp hưởng Lộc Tồn tuổi Canh  ở Thân).
Hai tuổi Giáp Thìn và Giáp Tuất là 2 tuổi đều hàng Can Giáp (Mộc) khắc Chi ThìnTuất (Thổ). Hai tuổi này cũng cách biệt nhau cả một dặm đường: Giáp Tuất tuy Can khắc Chi, cuộc đời thấy nhiều trở lực, nhưng còn được dự phần tham dự chia sẻ Thiên Lộc tuổi Giáp. Giáp Thìn kể như là khách đi đường không liên quan gì đến, lại còn bị cảnh nghèo túng là Lộc Tồn thường trực có Tuần đóng kín, chỉ còn trông cậy vào bộ sao Sát Phá Tham nếu được thủ mệnh sống theo Hoá Lộc, tay làm hàm nhai. Trường hợp tuổi Giáp Thìn,mệnh đóng ở vị trí tam hợp Hợi Mão Mùi dầu được bộ Sát Phá Tham là nòng cốt cũng chỉ làkiếp nhân sinh được tạo hoá nặn ra để trả nợ đời, không mong gì sự nâng đỡ vì vị trí của Sát Phá Tham  ở Hợi Mão Mùi, trường hợp nào cũng là đen tối, cố công xây đắp mấy cũng chỉ là hữu công vô lao (vị trí Thiếu âm Long đức Trực phù của tuổi Giáp Thìn).
Tóm lại tuổi của mỗi cá nhân có thể sắp xếp theo thứ tự tốt xấu có 5 bậc thang như sau:
1/ CAN sinh CHI: Phúc đức quá lớn tiềm tàng một căn bản hơn người
2/ CAN CHI đều nhau : có năng lực khá đầy đủ vững chắc
3/ CHI sinh CAN: đời gặp may nhiều hơn thực lực
4/ CAN khắc CHI: đời gặp nhiều trở lực
5/ CHI khắc CAN: nghịch cảnh đầy rẫy chua cay
Trương Lương Hàn Tín là 2 người bạn đồng Triều phò trợ Hán Cao Tổ Lưu Bang lên nghiệp đế. Cả 2 người cùng tuổi Giáp:

  • Trương Lương tuổi Giáp Ngọ sinh ngày 6 tháng 5 giờ Thìn
  • Hàn Tín tuổi Giáp Tuất sinh ngày 5 tháng 11 giờ Ngọ

Cả 2 người mệnh cùng đóng tại vị trí tam hợp Thái Tuế là người  hành động nêu cao chính nghĩa, cùng được bộ Tử Phủ Sát Phá Tham làm nòng cốt ( đắc Khoa Quyền Lộc) cùng được hưởng Thiên Lộc là 3 tuổi Dần Ngọ Tuất. Nếu đem so tài thao lược Hàn Tín  còn ở trên Trương Lương môt hạng nên được Hán Cao Tổ phải lập đàn phong tướng tự tay nâng ấn kiếm nguyên nhung trao cho Hàn Tín trước muôn thủ hạ cho có danh chánh ngôn thuận. Vậy mà cuộc đời Hàn Tín phải hứng chịu biết bao nhiêu thua thiệt kém Trương Lương.
Từ một kẻ thứ dân nương nhờ cơm Siếu Mẫu, có lần nhẫn nhục luồn trôn thất phu ở kẻ chợ , đành rằng đời vĩ nhân phải trải qua nhiều cơn bĩ cực chờ Thiên Thời mới rõ vàng thau.
Trương Lương thuộc dòng KhanhSĩ gặp buổi vong quốc cũng phải lang thang nay đây mai đó tìm mặt gửi vàng, đến đâu cũng được trọng đãi.
Phân tách những nét chính của hai lá số , trước nhất Trương Lương hơn Hàn Tín  ở cái gốc tuổi Giáp Ngọ được Can sinh Chi, Hàn Tín bị Can khắc Chi ( Giáp Tuất). Trương Lương mệnh ở vị trí Quan Phù có ý tứ tính toán kỹ càng dẫn dắt đời sống.
Hàn Tín ở vị trí Bạch Hổ mỗi khi làm việc thì bất cứ giá nào làm cho kỳ đắc ý (còn tham vọng). Phúc đức của Trương Lương có Tham lang ở Thìn ngộ Tuần hoà hợp đủ nghĩa với vị trí Mệnh, Quan Phù có thể từ bỏ mọi tham vọng để nhàn du sơn thuỷ. Hàn Tín Phúc Thất Sát triều đẩu bị cả Tuần lẫn Triệt. Phải chăng vì thế cuộc đời đi đến chỗ bithương.
Ba tuổi Giáp được hưởng Lộc tồn thì Giáp Ngọ đứng đầu vì Giáp sinh Ngọ, thứ đến Giáp Dần ( Giáp và Dần đồng hành) đứng sau chót mới đến Giáp Tuất vì Giáp khắc Tuất.Trương Lương tuổi Giáp Ngọ đương nhiên được hưởng nhiều hành phúc hơn Hàn Tín tuổi Giáp Tuất.
Vậy tuổi mỗi cá nhân không phải là đương nhiên Can Chi tuần tự sắp xếp không có nghĩa lý , thật ra tiềm tàng một ý tứ sâu sắc như diễn tả hình bóng cả một cuộc đời.
Can là gốc là Phúc đức, Chi là ngọn là Thân thế. Hạn hành hên xui hàng năm xuống đến hàng tháng hàng ngày do Can của năm tháng ngày chế hoá với Can của  Mệnh chiếm phần ưu tiên quan trọng điều khiển. 

Đâu Là Nguyên Lý Ngũ Hành Nạp Âm Của 60 Hoa Giáp

Nạp âm là phối hiệp để thành một tiếng.
Ngũ hành nạp âm là Can và Chi ghép lại hoá nên một hành khác.
Nạp âm ngũ hành của 60 hoa giáp là sự thành lập ngũ hành của 10 thiên can phối hợp với 12 địa chi theo nhạc điệu Cung ( thổ) Thương (kim) Giốc (Mộc) Chuỷ (Hoa) Vũ ( Thuỷ). Nhưng vẫn thấy không cho phép tin tưởng đâu là chính lý hoàn hảo.
Hàng Can đã trình bày ngũ hành được rành mạch đều đặn bằng 5 cặp phân tách âm dương chính xác. Đến hàng Chi để cho đúng thời tiết phải thêm 2 hành Thổ làm cái mức nối tiếp cho 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông để cho mỗi mùa tương đối xê xích 3 tháng trên dưới 90 ngày, cứ Dần Mão là Xuân, Tỵ Ngọ là Hạ, Thân Dậu là Thu, Hợi Tí là Đông. 
Lấy tinh tâm mà ngắm nhìn kỹ bản địa bàn tử vi thấy cả 1 thế thái cực vững vàng  cân phân đủ thời tiết đến phương hướng hoàn hảo trúng cách. Thế thái cực thành lập gồm đủ lưỡng nghi tương phân từ Mão đến Thân thuộc Thái dương và từ Dậu đến Dần thuộc Thái âmnhư hai đĩa cân ngang bằng sánh đôi. Về hình thức  thật là bằng nhau nhưng tính cách lại khác biệt. Một đằng thuộc Thái Dương sáng lạng bao nhiêu , trái lại bên âm âm tối bấy nhiêu  như trắng với đen. Một bên gồm Hoả ( Ngọ ) với Kim ( Thân) , bên kia củaThuỷ ( Tí) với Mộc (Dần). Hai điểm Thìn Tuất là 2 thế giao điểm pháp nguồn (Thiếu âm và Thiếu âm). Bên này có Thuỷ khắc Hoả thì bên kia có Kim khắc Mộc.
Như vậy có 3 cặp tương xứng đối diện nhau nên được đặt làm 3 mốc chính để bắt đầu xếp nạp âm định lýngũ hành  cho một hoa giáp.
Nhưng tại sao Giáp Tí được coi là Kim hành , Giáp Tuất là Hoả và Giáp Dần là Thuỷ? Biết rằng Giáp là Mộc, Tí là Thuỷ, 2 chữ đứng chụm với nhau lại là Kim, thấy như không có mạch lạc gì giữ nạp âm với Can Chi, như 2 chữ Tân Dậucả 2 Can Chi đều có Kim mà hành chung lại là Mộc, thật là một cảnh lạc lõng khác thường.
ây là một định lý, có thể nói là rất cao siêu của lý học. Hành Hoả là tư thế sự vật bùng cháy bốc lên tượng trưng cho THIÊN. Thuỷ là sự xâm nhập lắng xuống biểu hiện cho ĐịA. Còn Kim là tư thế của sự vật quyết liệt để trường tồn là NHÂN. Ba hành này đại diện cho tam tài THIÊN ĐỊA NHÂN, có ý nghĩa là 60 hoa giáp do 3 cấp Trời Đất và người hiệp định xây dựng quyết định và chỉ có 3 hành này được bắt đầu hướng đi  như: 
Nguyên lý của 60 Hoa Giáp và Ý Nghĩa Của Mỗi Năm Trong 60 Hoa Giáp

Trong 12 chi có 6 Chi dương ghép với 5 Can dương và 6 Chi âm hợp với 5 Can âm, làm sao mỗi Chi đứng với 1 Can có một hành riêng tức là 5 Can có đủ ngũ hành như :zTrong 12 chi có 6 Chi dương ghép với 5 Can dương và 6 Chi âm hợp với 5 Can âm, làm sao mỗi Chi đứng với 1 Can có một hành riêng tức là 5 Can có đủ ngũ hành như :

Giáp Tí Kim
Bính Tí Thuỷ
Mậu Tí Hoả
Canh Tí Thổ
Nhâm Tí Mộc
ẤT Dậu Thuỷ
Đinh Dậu Hoả
Kỷ Dậu  Thổ
Tân Dậu Mộc
Quí Dậu Kim

BênThái âm ( Giáp Tí, Giáp Tuất , Giáp Dần ) cũng như bên Thái dương  (  Giáp Thân, Giáp Ngọ , Giáp Thìn) đều có ý  nghĩa của sự sắp xếp như:
1/ Giáp Tuất và Giáp Thìn thuộc Hoả là Thiên Mệnh có ý định răn trừng tiềm tàng ở trong khối toả ra 2 đầu: Kim khắc Mộc và Thổ khắc Thuỷ.
2/ Giáp Dần và Giáp Thân thuộc Thuỷ là Địa Mẫu , có ý nuôi dưỡng dịu hiền nên Thuỷ sinh Mộc , Mộc sinh Hoả , Hoả sinh Thổ tuần tự phát huy.
3/ Giáp Tí và Giáp Ngọ thuộc Kim là ý định của nhân sinh tiềm tàng trong nội tâm lòng ham muốn sanh tồn nên ở giữa vươn ra Thổ sinh Kim và Mộc sinh Hoả.

Người tuổi Canh Tuất Mệnh Thân đồng cung Thìn thấy ngay người sống trong nội tâm bất đắc dĩ được hành nạp âm của mệnh là Kim, bồi thêm Kim cục thuận đường đi nước bước. Vũ khúc và Thiên mã là nghị lực ( Kim ) chính xác của dương nhân, mặc dầu sự ganh  đua không trí Thân Tí Thìn khắc được Dần Ngọ Tuất phù hợp với 2 chữ Canh Tuất (Tuất sinh Canh - đường đời dễ gặp nhau) dầu sao cũng là hoàn cảnh không cho phép đắc ý (Tuế Phá ) với khả năng có thừa.
Âm dương ngũ hành là then chốt của lý học. Mọi sự huyền diệu không ngoài sự giao dich động hay tĩnh của ngũ hành và luật lệ âm dương, cũng là khả năng vô địch của tam tài Thiên Địa Nhân.

Bài viết cùng chủ đề

Quẻ Trạch Hỏa Cách (Quẻ số 49 trong Kinh Dịch) Có Ý Nghĩa Tốt Hay Xấu? Luận giải chính xác dể hiểu

Quẻ Trạch Hỏa Cách (Quẻ số 49 trong Kinh Dịch) Có Ý Nghĩa Tốt Hay Xấu? Luận giải chính xác dể hiểu

Ngọc Phương
Ngọc Phương 1 năm trước

Ý Nghĩa Quẻ Số 49 Quẻ Trạch Hỏa Cách Hung Hay Cát: Luận giải chi tiết