Lập Lá Số tử Vi 2024

Khi thành lập được lá số tử vi với 12 cung ổn định, ta sẽ nắm bắt được những thông tin có liên quan đến cá nhân vào thời điểm ra đời như cha mẹ, họ hàng, anh chị, nhà cửa, khuôn hình căn bản của số phận, tính cách, thể trạng của cá nhân, bản mệnh năm 2024, vận hạn trong năm. Nhưng đó chỉ là một là số tĩnh, sự phối kết các sao tại các cung ở trạng thái tĩnh chỉ cho ta biết những thông tin trong quá khứ và vào thời điểm cá nhân đó xuất hiện.

Sau khi được sinh ra, cá nhân đó tiếp tục chịu ảnh hưởng của môi trường để tồn tại và phát triển. Cuộc sống của con người luôn biển động, không cố định ở bất cứ một thời điểm nào và luôn có sự tương tác lẫn nhau, nhất là khi ở gần nhau hoặc có quan hệ huyết thống. Một cá thể được sinh ra là do sự tác động của cha mẹ, dòng họ, anh em thì ngược lại, sau khi ra đời, cả thể đó cũng tác động ngược lại đối với gia đình, cha mẹ, anh chị em, dòng họ.

Sự phù hợp hay đối nghịch về sinh học, năng lượng, tính cách, thời vận....đều tạo ra sự phát triển hay suy bại. Chính vì vậy mới có chuyện sau khi sinh con có gia đình làm ăn phát đạt, cha mẹ khoẻ mạnh nhưng có gia đình thì lại suy bại. Hoặc như chuyện nhận con nuôi, nuôi dưỡng người tàn tật trong gia đình để tránh chuyện rủi ro. Đến vận xấu mà trong cung Huynh đệ, cung Tử tức có nhiều sao tốt có thể giải nạn (như Hoa khoa, Thanh Long) thì việc kết nghĩa anh em, nhận thêm anh chị em nuôi, sinh con, nhận con nuôi cũng là một việc tốt, giảm bớt điều xấu.

Nhận định tổng hợp về lá số:

Khi luận đoán một lá số không nên chỉ dựa vào những sao ở trên các cung cố định mà cần phải có sự kết hợp với các sao ở cung Mệnh, cung vận thì mới chính xác. Ví dụ khi muốn luận cung Phụ mẫu, Phúc Đức, Điền trạch thì phải kết hợp với cả cung Mệnh. Nếu mệnh có Thiên hình (không có Tuần - Triệt ngăn cản) thì khi ở nhà với cha mẹ chỉ phá phách nghịch ngợm nhưng cha mẹ lại khá giả nhưng nếu bỏ nhà ra đi thì công việc của cha mẹ cũng đinh trệ. (Lưu ý các kiến thức được cập nhật vào năm 2024)

Hoặc nếu hạn đến cung Mệnh có nhiều cát tinh thì khi đó cha mẹ cũng được hưởng lộc của con mà thăng tiến, ngược lại cá nhân cũng nhờ đó mà hưởng an nhàn phú quý. Nếu khi sinh ra mà trong cung Phụ mẫu tiềm tàng những yếu tố khắc cha mẹ như Tang mã khốc hư, Địa không, Địa kiếp, hoặc Tuần - Triệt ngăn cản giữa cung Mệnh và cung Phụ mẫu thì cha mẹ sẽ gặp chuyện không hay hoặc khi nhập hạn sẽ phải sống xa cha mẹ.

Nếu cung Phụ mẫu tốt thì không khắc nổi chỉ phải sống cách xa nhưng vẫn được nhờ cha mẹ, ngược lại dễ dẫn đến chuyện sinh li tử biệt, cách tốt nhất là sống xa cha mẹ để giảm khắc đến hạn tốt thì gần cha mẹ. Nếu Mệnh có Hoá kỵ mà cung Điền có Thái tuế thì tuy không phải là người xấu nhưng trong cuộc sống gia đình luôn xảy ra chuyện bất hoà, cãi vã, nặng nề về mặt tinh thần. Nếu Mệnh - Tài - Quan tốt (ví như được cách Tử Phủ Vũ Tướng, Nhật - Nguyệt thêm Quyền, Lộc, Khôi, Việt, Đầu quân...) thì dẫu cung Điền có xấu thì cũng hơn người bình thường, thấp trong tầng lớp thượng lưu nhưng so với tầng lớp trung lưu vẫn cao hơn nhiều.

Những sao chính tinh Tử Phủ Vũ Tướng, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Âm Dương hoặc Sát Phá Liêm Tham vượng địa, cung Quan lộc có nhiều sao quyền lực như : Đấu quan, Quốc ấn, Hoa quyền, Hoá khoa, Tả phù, Hữu bật hội cùng những sao đài cát tỉnh Long trì, Phượng các, Thiên khôi, Thiên việt, Bát tọa, Tam thai, Văn xương, Văn khúc là những người lãnh đạo lớn, địa vị cao quý, dáng vẻ đài các, đẹp đẽ. Cho dù có ở trong quân đội thì cũng là cấp chỉ huy làm việc hoạch định chiến lược trong công sở không phải tham gia trực tiếp chiến đấu. Nếu chỉ có sao quyền lực mà thiếu sao đài các thì thường phải lãnh đạo trực tiếp, mặc dù có quyền lực nhưng vẫn vất vả.

Bộ sao Tử Phủ Vũ Tướng hợp với thời vận khi bình yên, bộ Sát Phá Tham hợp với thời thế náo loạn. Điều này cũng giống như người có cách Sát Phá Tham luôn có dáng vẻ và phong cách làm việc xông xáo, vất vả hơn người Tử Phủ Vũ Tướng mặc dù là có thể công việc của hai người giống nhau. Trong các cách cục lãnh đạo mà Quốc ấn bị Triệt thì khó duy trì được vị trí chấp trưởng lâu dài.

Nếu người có Quốc ấn bị Triệt lên làm lãnh đạo cao nhất thì sẽ sớm xảy ra biến đổi bất lợi. Và khi luận số không nhất thiết thấy có nhiều cát tinh mà có thể luận tốt hơn khi có đầy đủ cả hung tinh lẫn cát tỉnh, những người muốn làm nên sự nghiệp lớn thì phải có tham vọng, phải có sự tranh đấu vì vậy không tránh khỏi việc xuất hiện những hung tinh trong Mệnh - Tài - Quan hoặc trong vận. Và sự khởi phát của hung tinh báo trước những thành công lớn (hung tinh đắc địa phát dã như lôi).

Trên lá số Tivi chỉ có 111 sao an trong 12 cung nhưng lại có thể cho biết thông tin về cuộc sống cả cuộc đời một con người? Vấn đề nằm ở tỉnh đa nghĩa của các sao. Cùng là một sao nhưng tuỳ theo từng vị trí và thời vận mà tính chất của sao có thể thay đổi khi kết hợp với những sao khác. Ví dụ cũng là một sao Hoá khoa tính chất là chỉ học vấn, sự hiểu biết nhưng khi vận có Phong cáo - Thai phụ, Thiên khôi - Thiên việt kết hợp lại sẽ là sự việc danh tiếng lẫy lừng nhờ học vấn cao; khi vận có Địa kiếp, Địa không thì là sự hao tốn có tính toán, học vấn thấp kém.

Sao Long trì khi đại vận gặp Phượng Các, Hoa cái, Thanh Long tạo thành cách Tứ linh thể hiện công danh, quyền chức; khi gặp Tam thai - Bát tọa, Phượng các lại chỉ việc xây dựng nhà cửa đẹp đẽ. Không những thay đổi tính chất khi kết hợp với những sao khác mà theo thời gian tính chất của sao cũng thay đổi theo. Sao Đào hoa thể hiện sự duyên dáng, rực rỡ hấp dẫn đối với người khác phái rất mạnh khi còn trẻ nhưng theo thời gian càng ngày càng suy yếu.

Ngược lại sao Địa không, Địa kiếp khi còn trẻ thì sự tác hại vừa phải nhưng theo thời gian càng lớn tuổi thì tác hại càng lớn, nhất là sau tuổi 50 trở đi. Không những thay đổi theo thời gian mà theo vị trí an sao cũng cho thấy những tính chất khác nhau, ví dụ sao Hồng loan đóng cung mệnh là người đẹp, duyên dáng, nhưng đóng Phu thê gặp Triệt chỉ người hôn phối có mắt trắng môi thâm cũng như vậy nhưng đóng cung Quan lộc thì chỉ sự hay thay đổi công việc.

Hồng loan khi xét trong Đại, Tiểu vận, Nguyệt vận thưởng chỉ chuyện vui mừng cưới hỏi hoặc người khác phái nhưng ở Nhật hạn và thời hạn thì lại thưởng chỉ có nghĩa là sợi dây, vật mềm mại. Sao Kình dương ở vận tốt chỉ công việc kinh doanh, uy dũng, hoạnh phát danh tài nhưng khi đi cùng Đào hoa, Tang Mã Khốc Hư lại chỉ cái cuốc, xẻng (Đào hoa là cái hố, Tang mã Khốc Hư là tiếng khóc buồn).....

Hình 188

Ví dụ một lá số hoàn thành an đủ 118 sao: Dương nam - 17/1/Canh Thân - giờ Hợi.

Luận về cung Mệnh - Tài – Quan:

Trên lá số Tử vi cung Mệnh là cung quan trọng nhất, "Số hồ thiên Mệnh", nó thể hiện thọ yểu, sang hèn và cách hành xử của con người trong cuộc sống. Toàn bộ lá số bị chi phối khá lớn bởi cung Mệnh, khi luận đoán cần kết hợp cung Mệnh với tất cả các cung khác và với các đại tiểu vận.

Cung Mệnh thể hiện hình ảnh bên ngoài của con người trong cuộc sống, khi luận về Mệnh ta không chỉ căn cứ vào các sao trong cung Mệnh mà phải kết hợp với các sao hội chiếu từ cung Thiên di, cung Quan, cung Tài. Bởi vì cuộc đời con người bị chi phối bởi môi trường sống (những người mà cung thiên di bị Tuần hoặc Triệt thường phải xa quê lập nghiệp), công việc, tài chính. Mệnh - Tài - Quan - Thiên di bao giờ cũng có sự liên thông với nhau. Một người làm công tác ngoại giao thì phong cách đi đứng, ăn mặc sẽ khác với một người làm nghề phu xe.

Người cung Tài rất tốt (tỷ phú) cuộc sống vật chất đầy đủ thì phong cách cũng đầy đặn, phương phi khác với những người nghèo, không những khác nhau về cách hành xử mà còn khác nhau cả về khiếu thẩm mỹ và ẩm thực. Người làm quan cao sẽ có vẻ bề ngoài cao sang, được trọng vọng hoặc người có danh tiếng trong xã hội thì thường có vẻ thanh cao ắt cũng được sự kính nể của mọi người...

Một cung Mệnh không thể hiện được địa vị quan chức trong xã hội hay sự giàu nghèo của một cá nhân mà phải kết hợp với cung Tài, cung Quan. Người mệnh tốt chính tỉnh miếu địa vẫn có thể nghèo hoặc chẳng có quan chức gì nếu cung Tài, cung Quan xấu và ngược lại, cung Mệnh tuy xấu nhưng cung Tài, cung Quan tốt thì vẫn phú quý. Mệnh chỉ có tác dụng hỗ trợ hoặc triết giảm tính chất của các cung khác, điều này thể hiện rất rõ khi có Tuần - Triệt.

Ví dụ:

- Cung Mệnh có Địa không - Địa kiếp thì cuộc đời luôn luôn phải tất bật lo lắng về tiền bạc cho dù giàu hay nghèo. Nếu đi kèm với một cung Tài tốt thì người đó vẫn giàu có nhưng trong con mắt của mọi người thì vẫn là người chặt chẽ. Ngược lại cung Tài cũng xấu thì nhất định dễ gặp cảnh tha hương cầu thực;

- Cung Mệnh tốt nhưng cung Tài gặp Địa Không - Địa Kiếp thì trông dáng vẻ vẫn phong độ không phải lo lắng nhiều về tiền bạc nhưng không giàu được (trừ khi vào vận đẹp, nhưng hết vận thì cũng hết tiền) và để kiếm tiền họ dễ làm chuyện phạm pháp. Nếu có nhiều thiện tỉnh và cung Tật tốt, cung Quan có sao tài thì sẽ làm công việc quản lý tiền bạc, nhiều tiền mà không phải của mình (kế toán, thủ quỹ).

Đối với những trường hợp cung Mệnh bị Tuần hoặc Triệt thì có nghĩa là Tuần -Triệt đã ngăn cản sự chi phối qua lại giữa cung Mệnh với Quan, Di, Tài. Ở những trường hợp này qua dáng vẻ bề ngoài ta khó mà nhận biết được đối tượng là người giàu, nghèo, quan chức hay là thường dân.

Ví dụ:

- Nếu cung Mệnh xấu bị Tuần Triệt nhưng cung Tài hoặc cung Quan rất tốt thì người đó vẫn có địa vị lớn hoặc rất giàu có mặc dù trông dáng vẻ bề ngoài xấu xí hoặc tướng mạo bần tiện. Thường rơi vào trường hợp của những người trọc phú hoặc quan chức có dị tướng nhưng thoáng nhìn có dáng điệu như nông dân. Lúc này muốn biết rõ hơn về cuộc sống và diện mạo của đối tượng thì chỉ cần xét các sao trong cung bản cung và các sao hạn (nhưng những trường hợp này chúng ta sẽ gặp nhiều hạn chế). Nếu các sao trong cung Mệnh tốt, có nhiều cát tinh thì cuộc sống người đó vẫn thoải mái và hình dáng vẫn có phong độ phú quý.

- Trường hợp gặp Tuần, tính chất các sao vẫn được xét như bình thường, trường hợp gặp Triệt, cần chiết giảm 1/2 tính chất của các sao.

- Nếu cung Mệnh đẹp, có nhiều cát tinh mà cung Tài, Quan, Di xấu lại bị Tuần hay Triệt thì người đó cho dù tướng mạo tốt, phong độ nhưng vẫn không phải là kẻ có quan chức hay giàu có. Mặc dù bị Tuần - Triệt, không được sự hỗ trợ của cát tinh từ cung Mệnh nhưng các sao trong bản cung Tài, Quan, Di tốt tạo thành cách cục giàu hoặc sang quý, người đó vẫn giàu hoặc có địa vị cao.

Cung Mệnh phản ánh hình ảnh thể hiện thọ yểu, sang hèn, hiền lành, dữ tợn hay nhân hậu, trí thức, thương gia, quan lại, phong độ uy nghi, hình dáng đẹp đẽ hay dị tật, bệnh tật trên cơ thể. Nếu cả Mệnh - Tài - Quan đều tốt và có cách cục rõ ràng thì là điều đáng quý, đó là lá số của những bậc thiên tử hoặc danh nhân, cho dù trong vận trình của cuộc đời có gặp những hạn rất xấu thi cũng vẫn hơn người bình thường.

1. Một số cách cục thể hiện từ cung Mệnh:

- Tang Môn - Thiên khốc - Thiên Hư đóng mệnh nét mặt không tươi. Nếu Mệnh hội đủ cả khốc, hư, tang, mã thì khắc thân nhân (khắc ở đây là tính theo lý ngũ hành, về sinh học mặc dù có thể người đó rất hiếu thuận). Và trong cuộc đời thường hay gặp chuyện buồn về tinh thần, tình cảm. Nếu Mệnh tốt, cung Quan tốt có Sát Phá Liêm Tham miếu địa kèm theo những sao chỉ quyền lực như Thái tuế, Đẩu quân, Hoá quyền, Hoa khoa, Hoa Lộc, Thiên khôi, Thiên việt, Quốc ấn...và các hung sát tỉnh miếu địa thì thường là người hoạt động binh nghiệp hoặc chính trị. Thể hiện tính cách mạnh mẽ dám vượt mọi khó khăn, gian khổ; thường là cách cục của những lá số của những người làm chính trị hay là võ tướng lẫy lừng. Những người gây dựng được sự nghiệp lớn thì Mệnh - Tải - Quan - Di thường có đủ cả cát tinh lẫn hung tỉnh như Kinh, Đà, Không, Kiếp.

Hung tinh đắc địa phát dã như lôi

Cát tinh đắc địa tầm tầm sự nghiệp.

Ngược lại, Mệnh xấu, chính tỉnh hãm địa, kèm theo Địa kiếp, Thiên không, Thiên hình thiếu các sao cát tinh trợ lực thì là trộm cướp, hại người.

Mệnh xấu chính tinh hãm gặp hạn Địa kiếp, Phi liêm, Kiếp sát hoặc Thiên hình, Phục binh thì dễ bị người khác ám hại.

- Khi mệnh có các sao văn tinh, đài các hội tụ như Hoá khoa, Văn khúc, Văn xương, Thiên khôi, Thiên Việt, Long trì, Phượng các, Phong cáo Thai phụ, hung sát tỉnh ít xâm phạm thì đó là người thông minh, học giỏi - cách cục của những văn nhân, trí thức tài năng.

- Mệnh có Thiên quan, Thiên phúc, Cô thần - Quả tú, Thiên không, Thanh long, Hoa cái, Thiên riêu, Tam - tử Đức (Thiên đức, Nguyệt đức, Long đức, Phúc đức) là người mộ đạo, tu hành, ưa làm việc thiện, có trực giác tốt, giỏi các môn khoa học thần bí.

- Mệnh gặp Kình dương, Lực sỹ, Địa không, Địa kiếp, thường là người phải lao động vất vả nhất là khi chính tinh hãm địa, càng lớn tuổi càng gặp nhiều khó khăn. Nếu Kinh dương, Lực sỹ gặp Thanh Long, Hoa cái thể hiện là người có khả năng đặc biệt hoặc luyện khí công có thành tựu - cách cục của những võ sư giỏi.

- Mệnh gặp Địa kiếp (Địa Không), Thiên không, Lưu hà, Thiên trù, Hoa cái, Đà la, cung Tài - Quan xấu là số của những người nghèo khổ, tha hương khất thực (Thiên trù là sao chủ sự ăn uống gặp cát tinh là người thường được người khác mời ăn, khả năng ẩm thực tốt nhưng gặp hung tinh thì ám chỉ đồ ăn thừa của thiên hạ).

2. Một số tính chất cơ bản của cung Mệnh phản ánh ra bên ngoài trong con mắt của mọi người. Những câu phú kinh nghiệm kèm theo sự chọn lọc các câu phú trong sách tham khảo Dịch lý huyền cơ:

Tử vi mặt đỏ lưng đầy

Tinh thời trung hậu, mặt đầy phương phi.

Thiên cơ thanh tủ, mình dài

Tâm từ tính cấp, đa tài đa mưu.

Thái dương mặt hộp, thân dài

Thông minh tươm tất, thảo ngay, hiền hoà.

Vũ khúc mà ở mệnh cung

Ngoài thì đầu nhỏ, bên trong nốt ruồi,

Lại thêm cô - quả, Kiếp - Không

Chung thân cô độc chẳng nhờ được ai.

Thiên đồng đầu lớn lưng đầy

Hình thời phì mãn, tượng này phương viên,

Ôn lương mà lại hiền hoà.

Liêm trinh hỏa diện thân trường,

Đắc địa đoan chính phân minh

Còn thời hãm địa khá kinh

Lộ hầu, lộ nhãn, mặt màu vàng xanh Tỉnh thời táo bạo tương tranh

Khi lành khi dữ, tiện nhân, cô hàn. Thiên phủ miếu vượng khá thông

Mặt tròn da trắng ôn dung thuần hoà.

Nguyệt miếu vượng người thời to lớn, mặt hiền

Gặp hãm cung hơi ốm mà cao

Tỉnh ưa ngâm vịnh tiêu dao

Danh tài nếu có nhờ vào văn tinh.

Tham lang chỉ thích ăn sang

Miếu thời người lớn là dòng lược thao

Hãm cung Tỵ Hợi xấu sao

Nhỏ người mê mệt tiêu hao phong tình

Hiểm độc mà lại đa kinh

Tham tình tham sức quen mình bạc hung

Cự môn mình tròn, da trắng, tóc mây

Cát tinh hội tụ thực đầy vinh xương

Cự hãm địa là người đa ngôn

Đa nghi tính toán thêm phần tối tăm,

Nếu không có Đào Hồng tương hội

Người môi thâm số ấy hiếm con.

Thiên tưởng đứng đắn lạ thường

Miếu địa tướng mạo uy nghi thanh nhàn

Tinh thời chẳng chịu nói càn

Lòng thời nhiệm nhặt mọi đàng ung dung.

Thiên lương lòng lành, cẩn thận, thanh cao ai đây

Hãm cung ngộ sát (tinh) ưu phiền

Nam đa lận đận, nữ duyên ưu phiền.

Thất sát mắt lớn dọi đèn

Việc làm muốn chóng một phen cho rồi

Tinh thời hay động hay thôi

Lại thêm tỉnh nóng thẳng ngay

Bạo hổ băng hà nào sợ có ai

Miếu cung mệnh lớn thanh cao

Rơi vào hãm địa bạo hung điêu tàn.

Phá quân lưng đầy, mình thấp lại là mi thưa

Tinh cương chẳng có ai ưa

Miếu cung cơ trí hơn người

Hãm thời bạc ác chẳng vừa được đâu.

Vũ Tham đầu nhỏ mình to.

Phủ Liêm xốc xếch sức đo hơn người.

Khúc Xương là bậc thông minh, đa tài.

Thật thà đừng dẫn là làng Đồng - Lương.

Việt Khôi là cách văn chương

Thiên Khôi - trong nhà con trưởng, ra ngoài bậc trên

Thiên Việt, Không (Kiếp) da đen.

Mặt sáng ấy hội Khoa Quyền

Vũ Tham, Hoá Lộc râu liền đến tai.

Phong cáo - Thai phụ giao hoan

Nếu không danh tiếng cũng người ngợi khen

Đẹp thay Tả - Hữu một phương

Tinh thời trung hậu thường hay giúp người.

Thiên mã nhập mệnh đa năng mẫn tiệp

Khốc Hư Tang Mã mặt thường không tươi,

Thân nhân khắc kỵ chẳng ai lâu bền.

Tham - Đào tốt tóc xanh râm

Mắt đen Vũ - Kỵ chẳng nhầm một ai.

Phả (toái) - Thái tuế lợi khẩu nói to .

Hoa kỵ lắm chuyện đa nghi bực mình.

Trường sinh - Lục sỹ thọ trường thiên địa.

Mộc dục làm dáng ai bị

Long trì - Phượng các ấy ai dịu dàng.

Hay khoe là cách Lâm quan.

Ân quang, Thiên quỷ đẹp thay,

Trên nào cũng mến dưới nào cũng yêu

Quý nhân phù trợ những ngày khó khăn.

Thanh Long cơ biển đủ điều

Trong đời sẽ có một lần đổi cung

(thay cung đổi mệnh, hoặc thay đổi họ tên)

Tấu thư nói ngọt người theo ngay về.

Hỷ thần - Thiên hỷ hai sao

Đóng đâu thì đó là nơi vui cười.

Đào, Hồng mặt mũi xinh tươi,

Kinh, Đà, Kiếp (Không), Kị ấy người tật thương,

Lại gia Không - Kiếp là người yếu vong.

Đào, Hồng, Riêu, Hỷ trong ngoài

Lại gia Binh, Tưởng gái trai hoang tàn.

Hoả Linh mặt khó sầu đăm đêm ngày.

Kình dương tại kém mình gầy.

Đà la mắt lớn, chân tay thì dài

Giáp Kình - giáp Đà e thân phải gầy.

Vũ, Riêu, Phủ toái nói ngọng lẽ thường

Lại thêm Việt Kỵ ấy phường điếc câm

Tham Lang hãm địa ấy là

Người trong hai nách mồ hôi một lò

Âm - Dương lạc hãm không nên

Lại thêm Riêu Kị mắt thường tật thương

(Thái âm mắt phải, Thái dương mắt trái)

Đà la, Văn khúc nốt ruồi điểm to

Cự Môn, Hoa kị đa nghi hão huyền.

Cô thần – Quả tú nơi cung mệnh

Tính người có độc chẳng gần được ai

Làm xong lại thấy âu lo

Ấy người Vũ (khúc) - Thất (sát) tương phò mệnh viên.

Thiên khôi Để vượng tinh trần

Nốt ruồi điểm ở trong thân khá nhiều

Linh tinh hà tiện bao nhiêu

Phá quân lại lại tính liều tiêu vung

Thiên khỏi Hình kỵ một nhà

Trên đầu có vết dễ mà sai đâu

Thái tuế Hoa kỵ liệt hỏi

Chua ngoa miệng lưỡi ấy người đa ngôn

Cô – Quả, Quan – Phúc hội miền

Lại không Tuần – Triệt cửa thiền định thân

Thiên mã mà ngộ Đà la

Lại gia Không - Kiếp tật thương ấy là

Song hao Vũ khúc mệnh cung

Ấy người gầy nhỏ chẳng sai chút nào

Cô – Quả, Hình Kiếp lâm vào

Mệnh cung ấy sẵn có ngày ngục trung

Tẩu thư, Hoa cải thanh kỳ

Mộc, Riêu, Hoa cải ắt thì dâm bón

Tử linh: Hổ, Cái, Phượng, Long

Công danh, quyền thể lẫy lừng một khi

* Chú ý:

Các chính tỉnh trong Mệnh chỉ phản ánh được tính chung nhất khái quát căn bản của một người nên cần phải xét cả các phụ tinh. Nếu không tạo được cách cục rõ ràng thì trường hợp cung mệnh có 2 chính tinh, sẽ thể hiện tính chất của cả hai chính tinh. Mệnh gặp Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham, hay Cơ Nguyệt Đồng Lương, Âm Dương đều có thể là người tu hành hay quan chức, thư lại, văn nhân, ông chủ....

Quan sát chính tinh sẽ thấy được diện mạo và cuộc sống đặc trưng của mỗi người. Người mệnh Tử Phù Vũ Tướng thưởng có hình dáng khuôn mặt phương phi đầy đặn, mệnh của những ông chủ hay quan chức hoặc đi tu cũng dễ đạt địa vị cao. Mệnh Sát Phá Liêm Tham thường có khuôn mặt góc cạnh. Mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương có hình dáng thanh cao, đầy đặn. Nhưng tuỳ vào từng lá số mà tính chất thể hiện ra bên ngoài không hoàn toàn như vậy.

Ví dụ: mệnh Cự Môn mà gặp (hoặc hạn gặp) Địa không (Địa Kiếp) Song hao thì không còn mình tròn da trắng tóc mây nữa mà dáng gầy, da trắng, miệng xấu; Tử vi, Thất sát bị Triệt thì dáng người gầy nhỏ..... hoặc: Thiên mã mà ngộ Đà la

Lại gia Không – Kiếp tật thương ấy là

Cô – Quả, Quan – Phúc hội miền

Lại không Tuần – Triệt cửa thiền định thân

Và không phải cứ gặp cách cục như vậy là khẳng định được ngay. Cuộc sống của con người luôn thay đổi theo từng vận trình khác nhau, những tính chất thể hiện ở Mệnh chỉ mang tính khuôn hình định trước và không cố định. Chỉ khi nào hội tụ đủ những điều kiện cần thiết (cách cục) mới thành kết quả. Mệnh hội Thiên mã, Đà la, Không - Kiếp nếu vận gặp Khoa - Quyền - Lộc thì có địa vị, tiền bạc, dễ xuất ngoại, gặp Thiên hình, Kiếp sát thiếu cát tỉnh cứu giải thì mới bị tật thương.

Mệnh gặp Cô thần, Quả tú, Thiên quan, Thiên phúc không phải sinh ra đã là người tu hành mà chỉ là có điều kiện, tố chất tu hành, nhưng phải đến vận gặp Thiên riêu, Đào hoa, Hoa cái, Thiên không, dâm tinh không xâm phạm thì mới tu hành. Mệnh Tử Phủ Vũ Tướng cho thấy trước sự phú quý nhưng chỉ khi gặp cát tinh trợ giúp mới phú quý, ngược lại gặp vận Địa kiếp, Thiên không, Đà la, Linh - Hoa thì cũng phải bôn ba, lao khổ không bằng mệnh Cự môn hãm gặp Khôi - Việt, Khoa - Quyền - Lộc. Giống như:

Tứ linh: Hổ, Cải, Phượng, Long

Công danh, quyền thế lẫy lừng một khi.

Tứ linh chỉ là những yếu tố nền tảng định trước chứ không nhất định là có công danh quyền thế lẫy lừng, chỉ khi vận gặp thêm hoặc nhiều cát tinh hội tụ như: Khoa - Quyền - Lộc, Thiên khôi, Thiên việt, Xương - Khúc, Quốc ấn thì mới thành cách cục rõ ràng. Ngược lại nếu vận trình kém, hoặc gặp nhiều hung tinh hoặc gặp Thiên riêu, cô - quả, Tứ đức, Thiên không thì cũng dễ trở thành thầy cúng, tu hành, bói toán....

Việc kết hợp luận Mệnh - Tài - Quan với cung Nô bộc sẽ giúp ta xác định được mức độ cao thấp của Mệnh (tầng lớp của trong cuộc sống xã hội) theo nguyên tắc “đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu".

Đối với cung Tài, cung Quan phương pháp luận cũng tương tự như vậy. Mỗi khi luận Mệnh - Tài - Quan cần phải xem xét kỹ lưỡng các sao tại bản cung và các sao hội tụ để cân nhắc chính xác, không nên bị gò bó bởi lý thuyết của sách vở.

3. Ví dụ:

- Ví dụ 1: Nam mệnh - 8/ 9/Bính Thìn - giờ Tý

Mệnh lập tại cung Tuất, Mệnh - Tài - Quan có cách Cơ Nguyệt Đồng Lương hãm địa (các sao ở cung Thiên di bị Triệt nên không được tính khi luận Mệnh mà chỉ được tính khi luận về cuộc sống của người này trong giao tiếp xã hội) - Thiên di bị Triệt nên phải xa quê lập nghiệp. Thiên Đồng đóng Mệnh, dáng người đậm chắc, khuôn mặt vuông vắn nhưng ở thế Thiên la - Địa Võng nên bị hãm, lại có Tang Mã Khốc Hư, nét mặt, thần thái không tươi nhuận, cuộc đời luôn vất vả và khắc người thân. Thân - Mệnh đồng cung, phải tự thân lập thân ít nhờ gia đình. Nhưng nhiều có cát tinh Khoa Quyền Lộc, Văn xương, Hữu bật, Đường phù, Phong cáo, Thai phụ hội tụ nên vẫn được ăn học và tuy vất vả nhưng cũng không phải làm công việc khó nhọc. Đây là lá số của một công chức bình thưởng. Vận đến cung Tài có thể làm ông chủ vừa và nhỏ.

- Ví dụ 2: Nam mệnh - 14/3/Tân Hợi - giờ Dậu

Mệnh lập tại cung Mùi. Mệnh - Tài - Quan không tạo thành cách cục rõ ràng. Mệnh có Tử vi - Phá Quân, dáng người đầy đặn, khuôn mặt góc cạnh. Thanh long, Hoa Cái, Bạch hổ, Phượng các hội tụ nên thể hiện khả năng đặc biệt trong lĩnh vực tâm linh, có tín ngưỡng, trực giác tốt. Hoa khoa, Văn xương, Văn khúc, Ân quang, Thiên quý, Tam thai, Bát toạ hội mệnh nên là người thông minh học giỏi, không phải lao động cực nhọc. Thân cư Di nên rất chú trọng công danh quyền thế. Cung Quan Liêm Trinh -Tham Lang hãm địa, có Thái tuế, Thiên hình, Phục binh, Bệnh hội về mệnh nên có xu hướng thích làm chính trị, thực thi pháp luật. Nhưng Tang môn, Thiên Khốc, Hoá kỵ, Thai, Linh tỉnh hội tụ nên khắc người thân, trắc trở khó thành đạt, nét mặt, thần thái không tươi, hay phải đấu tranh về mặt tinh thần giữa duy tâm và duy vật. Các đại vận đều không tốt, cung Tài bị Tuần nên phải đợi đến hạn cung Thiên di mới thành danh lớn trong lĩnh vực tâm linh.

- Ví dụ 3: Nữ mệnh - 8/10/ ất Mão - giờ Mùi

Mệnh lập tại cung Thìn. Cự Môn hãm địa ở thế La Võng, có thêm Thiên quan, Thiên phúc, Dưỡng hội tụ nên khi nhỏ phải làm con nuôi, mộ đạo, nhưng thêm nhiều hung sát tinh hội tụ như: Địa không, Thiên không, Hoả tỉnh, Đà la, Kiếp sát nên khó tu hành mà phải thường vất vả, lo lắng nhiều về tiền bạc, sự nghiệp; Cự môn hãm địa nên tướng mạo không đẹp, nhất là miệng xấu, không tươi (Cự môn chỉ miệng lưỡi). Nhưng bù lại cung Tài - Quan - Di có Tứ đức, Tam thai, Thiên Khôi, Thiên việt, Tẩu thư nên sự nghiệp học vấn tốt, được học cao (trên đại học), cung Thiên di lại có thêm Lưu hà nên có xu hướng làm những công việc có tính chất dịch vụ như du lịch, luật sư, tư vấn. Cung Quan tốt không phải lao động chân tay nhưng vì mệnh xấu nên vẫn phải thưởng vất vả. Thân cư cung Phúc Đức nhưng có Địa kiếp, Thiên hình, Hoả kỵ, Kình dương nên không được sự trợ giúp của dòng họ.

- Ví dụ 4: Nữ mệnh - 18/1/Quý sửu - giờ Sửu

Mệnh lập tại cung Sửu, Thiên Lương hãm địa bị Triệt nhưng vẫn là người hiền lành, cẩn thận, dáng người nhỏ, thanh tú. Mệnh có Thiên riêu, Hoa cái, Ân quang, Thiên Quý nên tín ngưỡng tâm linh cao, mộ đạo, hiền thục, có nghiên cứu, tìm hiểu về tâm linh, tôn giáo. Có Thái tuế, Phá toái, Đà là nên cũng bảo thủ, mặc dù khả năng ngôn ngữ tốt, nhưng là người ít nói, thích sự yên tĩnh, hơi cô độc. Lực sỹ bị Triệt nên không phải là người khoẻ mạnh. Nhưng vì Mệnh bị Triệt án ngữ nên tất cả những tính chất trên bị suy giảm, biểu hiện không rõ ràng, người ngoài khó nhận biết. (Vì mệnh bị Triệt nên chỉ luận những so trong cung Mệnh mà không tính đến các sao hội tụ).

Người này cung Tải - Quan tốt, có nhiều văn tinh tụ hội nên không phải vất vả. Cung Quan có Thái Dương miếu địa, Tấu thư, Long trì, Phượng các Tam thai, Bát toạ, Đường phù, Hoá khoa, Văn xương - Văn khúc, Quan phù nên sẽ là công chức làm việc nhẹ nhàng thiên về công việc giấy tờ, sách vở, nhưng không làm lớn được vì thiếu những sao quyền lực. Hạn đến cung Phụ mẫu, cung Phúc đức có Tuần nên Triệt ở Mệnh được tháo gỡ các cát tinh hội tụ về Mệnh càng có vẻ đài các nhưng đồng thời hung tinh cũng đi kèm như Thiên khốc, Thiên hư, Bạch hổ, Thiên hình, Tuế phá nên hay gặp chuyện buồn, sự cô độc cảng tăng thêm.

Hạn đến cung Phụ mẫu gặp Cô thần, Qua tú, Hoá kỵ, Điạ không, Phục binh, Kiếp sát, Bệnh phù, Đẩu quân nên tuy gặp Đào hoa, Hồng loan, Thiên hỷ, Mộc dục, Thiên đức, Nguyệt đức nhưng vẫn cô đơn, chuyện tình cảm nam nữ không thành, đồng thời trong người cũng phát bệnh kín vì sao Bệnh phù đã tàng ẩn trong cung Tật, cung Mệnh có Thiên riêu - hạn gặp lại Bệnh phủ, Hoá kỵ nên không tránh khỏi bị bệnh.

Gặp cả Thanh long, Thiên quan nên trực giác tốt và duyên ngộ với đạo Phật (nhưng không đi tu). Và trong hạn này mọi chuyện thường xảy ra bất ngờ vì có sao Thiên không chỉ sự bất ngờ không định trước. Hạn đến cung Phúc, Mệnh có Hoá Khoa, Hoa Quyền, Phong cáo, Thai phụ, Hỷ thần nhưng vì Mệnh bình thường lại thêm Tang môn, Thiên mã, Bệnh, Kinh dương (mệnh có sẵn Đà la gặp thêm Kình dương thì cơ thể càng yếu, chân tay hay bị thương tật) nên vẫn không tránh khỏi sự cô đơn và bệnh tật nhưng có Hoa Khoa từ cung Tài hội về cứu giải (bằng học vấn, sự hiểu biết) nên không đến nỗi nguy hiểm.

4. Trường hợp Mệnh vô chính diệu Cung vô chính diệu (không có chính tinh):

Đối với trường hợp Mệnh vô chính diệu hoặc cung vô chính diệu nói chung đều lấy chính tỉnh ở cung xung chiếu làm căn bản để luận đón cho đến khi bước vào đại vận có chính tỉnh thì lại lấy chính tỉnh của đại vận để luận đoán (không sử dụng được chính tỉnh ở các cung tam hợp vì không nằm trong trục đối xứng xung khắc về Ngũ hành nên tính chất không đủ mạnh). Ngoài ra nên xem Mệnh nằm trong trạng thái nào của vòng Trường sinh để luận đoán sự thọ yểu của Mệnh có kéo dài được đến đại vận tiếp theo hay không.

Cung vô chính diệu giống như một hố đen của vũ trụ câu hút được năng lượng từ các cung xung chiếu và tam hợp cho dù các cung đó có Tuần - Triệt hay không. Như một tổ chức chưa được định hình, một đội quân chưa có người lãnh đạo vì vậy tính chất của các phụ tinh thể hiện một cách tự do không có định hướng, khi gặp vận có chính tỉnh hoặc cung xung chiếu có chính tỉnh thì đó chính là sự định hướng sự phát triển cho cung đó.

Trường hợp cung vô chính diệu có Tuần - Triệt thì cũng không sử dụng được các sao xung chiếu cũng như tam hợp như khi cung Vô Chính diệu không có Tuần - Triệt mà phải căn cứ vào trạng thái vượng suy của cung theo vòng Trường sinh và chỉ sử dụng các sao tại bản cung để xét đoán cho đến khi nhập vận có chính tỉnh.

Trường hợp Mệnh hoặc Cung vô chính diệu có Tuần( Triệt) và cung đối xứng có Triệt (Tuần) thì khi đại vận chưa nhập vào cung Vô chính diệu thì vẫn chỉ sử dụng các sao tại bản cung để luận cho đến khi vận nhập vào cung Vô chính diệu thì cách luận như đối với trường hợp Tuần - Triệt tháo gỡ nhau.

Tính chất cơ bản của những trường hợp cung vô chính diệu là sự hay thay đổi trong cuộc đời tuỳ theo trạng thái của những vận trình sẽ gặp. Nếu vận trình rất tốt hoặc rất xấu thì sẽ là sự thay đổi tốt hoặc xấu mang tính chất đột biến, con người và sự việc thay đổi hoàn toàn.

- Ví dụ: nam - 01/6/Qui Hợi - giờ Thân.

Mệnh lập tại Hợi, Vô chính diệu, ở trong thế Tuyệt, hội tụ Không - Kiếp, Hoá kỵ cho thấy dấu hiệu dễ bị yếu mệnh khó nuôi. Nhưng vì sự tác hại của Không - Kiếp khi ít tuổi không lớn lại có bộ Kình dương - Lực sỹ nên đảm bảo cho một thể trạng tốt chống đỡ được bệnh tật, mệnh đắc Thái tuế, có nhiều cát tinh báo trước một tư cách lớn trong tương lai nên trước khi nhập vào đại vận thì mệnh tạm thời giữ được cân bằng nhờ sự tác động chăm sóc của gia đình xã hội (điều này thể hiện ở việc có nhiều cát tinh triều về mệnh). Thời gian vô chính diệu của mệnh chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, 2 tuổi bắt đầu chịu ảnh hưởng của đại vận có chính tinh là Liêm - Tham làm chủ cho mệnh nên không đến nỗi bị nguy hiểm đến tính mạng. Đến vận từ 12-21 có chính tỉnh là Thái dương, thêm cát tỉnh Thanh Long, Hoá khoa phù tá nên sức khoẻ ngày càng tốt hơn, mệnh vững, học giỏi. Vận từ 22 - 32 có cặp chính tinh Vũ khúc - Thất sát làm chủ cho thấy một con người khá liều lĩnh, bạo dạn, cứng rắn thêm Tả - Hữu, Khôi - Việt trợ giúp nên giỏi về văn chương học vấn nhưng theo chiều hướng cứng rắn; vận 32 - 42 có Đồng - Lương làm chủ sẽ bộc lộ tính chất thiện lương hơi kiêu kỳ cảnh vẻ, không có nhiều sát tinh xâm phạm nên khá thành đạt trên đường công danh, có thể làm thầy hoặc một chiến lược gia có tải ( Đồng - Lương là cách làm thầy làm chủ tốt). Nhưng đến đại vận 42 - 41, khi tiểu đại - tiểu vận trùng phùng ở cung Tài, gặp đủ bộ Không - Kiếp đang rất mạnh; lưu niên đại vận ở cung Phúc gặp Tang môn; Lưu thái tuế nhập cung Thiên di, tính chất của Liêm - Tham hãm, Hoá kỵ, Thiên phúc, Lâm quan, Thiên hư được phát động; Mệnh và Tiểu vận cũng gặp đủ bộ lưu Tang Mã Khốc Hư thì rất nguy hiểm cho mệnh.

- Ví dụ: Nam – 25/5/Bính Thìn - giờ Mão

Mệnh lập tại Mão, vô chính diệu có Đế vượng, Đẩu quân, Trực phủ, Phục binh, Tải - Quan có nhiều cát tinh hội tụ nên bản mệnh khá vững, hình dáng đầy dặn (Đế vượng, Đấu quân, Khoa, Quyền, Lộc, Thanh long, Đào hoa, Hồng loan, Khôi - Việt, Xương - Khúc), về cơ bản đây là mệnh của trí thức trung lưu vì cách cục có nhiều văn tinh, thiếu hung sát tinh. Cung Quan có Cự môn - Thiên đồng + Lưu hà, cho thấy tính chất công việc cần phải vận dụng nhiều khả năng về tư vấn, ngoại giao và vì Cự môn hãm địa nên không tránh khỏi nhiều sự cạnh tranh, đố kỵ hay phải thay đổi, dịch chuyển (Thiên đồng). Nhưng vì có nhiều trung tinh tốt nên tuy tinh chất công việc phức tạp nhưng là người có trình độ học vấn nên địa vị khá vững vàng. Có thêm Hoá lộc nên sẽ có sự liên quan nhiều đến tải chính; Thanh long cho thấy hình ảnh của những sách vở có tính chất học thuật tâm linh - đây là một cán bộ ngân hàng nhưng có nghiên cứu lý số. Cung Tài, Thiên cơ hãm, Địa giải, không có Tài tinh mạnh đóng tại bản cung chủ yếu là văn tinh nên khó mà giầu lớn, nhưng có Trường sinh nên nguồn mạch tài chính khá dồi dào tuy không giầu nhưng không sợ hết tiền.

Khi vận đến cung Phụ mẫu, cung Phúc đức bị Triệt có nhiều sát tinh gây bệnh tật rất nguy hiểm đến tính mạng nhưng vì bị Triệt nên tính chất của các sao bị giảm nhiều không đến nỗi yểu mệnh. Vận đến cung Điền, Tham lang hãm làm trụ cho Mệnh và vận, tính cách và cuộc sống sẽ có nhiều thay đổi, nóng nảy và ham hưởng lạc; căn bản ở Mệnh đã có sao Đẩu quân ám chỉ sự cô đơn khắc lục thân nên khi vào vận cung Điền bộ Tang Mã Khốc Hư, Địa kiếp ở vận này sẽ báo trước dấu hiệu buồn xảy ra đối với bản thân và gia đình của đương số. Nhưng vận này có Tả - Hữu, Kình dương, Lực sỹ,

Phượng các, Ân quang là những sao trợ giúp Mệnh rất tốt nên chuyện buồn ứng vào lục thân nhiều hơn, cung nào xấu cung đó chịu phần thiệt thòi.

Luận về cung Tật ách:

Cung Mệnh cũng thể hiện tính cách của cá nhân (nói đúng hơn là cách hành sử trong cuộc sống), nhưng tính cách này không phải là bản chất của cá nhân đó mà là kết quả tổng hoà của quá trình giao tiếp xã hội..., tính cách này có thể hiểu là do môi trường văn hoá, do yêu cầu của công việc, do giáo dục mà thành hay là các phản ứng có điều kiện của con người. Vì cuộc sống mà con người phải hành xử sao cho phù hợp để đạt được mục đích của mình. Bản chất bên trong, nội tâm, yếu tố bẩm sinh, khả năng tiềm ẩn, bệnh tật, thông thái, ngu đần, xảo quyệt, ý nghĩ được thể hiện trong cung Tật ách (đây là một khám phá mới của tôi về mặt hệ thống trên lá số Tử vi mà từ trước đến nay chưa có sách vở nào nhìn nhận). Giống như hình ảnh của một tên tội phạm gây hại cho người khác nhưng mọi người sẽ không biết là cố ý do bản chất xấu hay là người tốt nhưng vô tình gây hại nếu như chỉ nhìn vào Mệnh.

Khi cung Tật ách, cung Phụ Mẫu, cung Huynh đệ cung Điền không bị Tuần - Triệt thì cần phải kết hợp tất cả những sao ở các cung này để luận đoán. Vì thể chất bẩm sinh của một con người thường bị ảnh hưởng bởi các yếu tố di truyền từ cha mẹ, từ phong thuỷ nhà ở, từ cuộc sống với anh chị em trong gia đình.

Ví dụ, nhìn vào cung Mệnh của một người thấy Cự Môn hãm địa, Hoa Kỵ, Thiên Riêu hay gặp Địa không, Địa kiếp cũng chưa xác quyết đó là người xấu được; Cũng giống như nhìn trong Mệnh thấy Tử Vi -Thiên Tướng, Ân quang, Thiên quý cũng không hẳn đã là người thành thật tử tế, có thể đó là một quân tử giả hiệu.

Khi gặp một cung Tật rất xấu kể cả gặp những hạn hội tụ tất cả những đại sát tỉnh cũng không có nghĩa là người đó sẽ chết. Chết hay không phải xem ở Mệnh. Mệnh tuyệt thì dù cung Tật có đẹp bao nhiêu cũng không cứu nỗi, đó là trường hợp những người không bệnh tật nhưng bị nạn bất ngờ. Nếu cung Tật rất xấu nhưng cung Mệnh vững vàng thì người đó sẽ mắc bệnh kinh niên khó chữa thậm chí sống cả đời trên xe lăn nhưng vẫn thọ, có tài năng danh tiếng. Cả cung Mệnh và Tật đều xấu thì khi bước vào hạn xấu sẽ bị bệnh mà tổn thọ.

Một vài cách cục ví dụ luận đoán cung Tật ách:

- Tang Mã Khốc Hư- đa sầu, đa cảm, sâu sắc,

- Tam - Tứ Đức: hiền lành, lương thiện.

- Tả - Hữu: thành thật giàu lòng trắc ẩn.

- Khôi Việt: thông thái, quảng bác mặc dù có thể bằng cấp không cao (người mà cung Tật có Khôi Việt là người đọc rất nhiều thể loại sách vở).

- Thanh Long: thanh cao, có giác quan nhạy bén (giác quan thứ 6 phù hợp với những lĩnh vực tâm linh).

- Thái Tuế: bảo thủ, cố chấp.

- Văn xương, Văn khúc: thông minh, lãng mạn, nội tâm phong phú.

- Không - Kiếp: độc ác, sát phạt, nóng nảy.

- Vũ khúc: cương nghị, cứng rắn, có phần cô độc.

- Cự Môn: đa nghi, tính toán.

- Thiên Phủ: bao dung, hoà nhã.

- Tử Vi: nhân hậu, hiền lành.

- Thiên Đồng: bốc đồng, lương thiện, hay thay đổi.

- Thiên Lương: lương thiện, kiêu kỳ cảnh vệ.

- Quốc ấn: đoan chính, ngay thẳng.

- Lộc Tồn: độc đoán chuyên quyền, gia trưởng.

- Thiên Hình: cẩn thận, tiểu tiết.

- Hoa Kỳ: nhỏ nhen, đố kị, gian phi; kèm theo bệnh khi huyết không điều hoà, khó sinh con.

- Thai, Mộ: tỉnh rồi, kém thông minh.

Và tính cách (cách xử thế) của mỗi con người tuỳ từng hoàn cảnh: Vi dụ người có cung Tật thể hiện rất xấu nhưng ở cung Phụ Mẫu hoặc Phu Thê có Tam Tứ Đức thì dù có làm nhiều việc xấu nhưng riêng đối với cha mẹ hoặc vợ chồng người đó vẫn luôn xử sự tốt- Chú ý, khi luận sao ở cung Tật, cung Mệnh tính chất cơ bản không thay đổi, nhưng trạng thái biểu hiện khác nhau, ví dụ khi Tang Môn - Bạch hổ đóng cung Tật biểu hiện tính chất đa sầu đa cảm, suy nghĩ sâu sắc (mặc dù bên ngoài luôn tươi cười vì có Thiên hỷ, Hỷ thần đóng Mệnh) nhưng nếu đóng Mệnh người thường có nét mặt buồn, không tươi, cuộc đời hay gặp chuyện trắc trở về mặt tình cảm nhưng không hẳn đã là người đa sầu, đa cảm nếu như Thiên hỷ, Hỷ thần đóng cung Tật.

Ví dụ: Âm nam 30/10/ Ất Tỵ (giờ Mão) - một doanh nhân, rất am hiểu lĩnh vực Khoa học thần bí.

Cung Tật có Cự Môn, Thiên Cơ, Lộc tồn, Bác sỹ, Điếu khách, Thiên quý, Hoá lộc, Suy.

Thiên Cơ là sao thể hiện sự cơ trí, tài năng nhưng đi cung Cự Môn là sao đa nghi, mưu mô nên bản chất là sự gian hùng cơ trí hơn người, kèm theo Thiên Quý, Hoá Lộc nên có sự hướng thiện cao. Đáng tiếc là Tuần ở Dần Mão nên chính khí (Quốc ấn) bị ngăn cản thiếu chút hùng tâm không thì giờ phút này cũng là một nhà chính trị tiếng tăm.

Cung Mệnh có Liêm Trinh, Thiếu Âm, Thiên Việt, Thiên Phúc, Hy Thần, Tử Phủ Vũ Tướng, Khoa, Thiên Khôi, Thiên Hỷ, Đế Vượng, Thiên Quan, Long Đức triều về lại thêm Địa Không, Cô thần - Quả tủ là một cách cục hiếm có. Trong con mắt của mọi người đây là một người nhu thuận, vui vẻ, tử tế, hướng thiện, giỏi, sáng suốt, nghiêm túc, khuôn phép, có kỷ luật bản thân tốt.

Tuy nhiên nhập đại vận 32 ở cung Tử tức, gặp Thái Tuế, Hoá Quyền, Tướng quân mang tham vọng đầy mình bản chất của Cự - Cơ kết hợp với Phục Binh, Hoá Kỵ, Linh Tinh, Phá Toái, Thiên Tài làm triết giảm tính chất của Ân quang, Thiên quý, Long Phượng trở nên gian hùng (Cự - Cơ, Phục binh, Thiên tài, Hoá kị), bảo thủ (Thái tuế), khoe khoang (Lâm quan), độc đoán chuyên quyền (Lộc Tồn) thích hư vinh (Phong cáo, Thai phụ). Trong giai đoạn này lẽ ra không đến nỗi bị thiên hạ cười chê vì Hoá kỵ ở đây vừa là sao xấu, cũng vừa là sao ngăn cản tính xấu nhưng vì Liêm Trinh ở Mệnh được Tả Hữu (lúc tốt thì là bạn tốt, lúc xấu thì là bạn xấu) trợ giúp nên không những giảm bớt tỉnh xấu mà còn tăng thêm.

Xét về tố chất, người này cơ tri sáng suốt tính toán rất nhanh, mệnh lại có Khoa, Khôi - Việt có khả năng trong nhiều lĩnh vực nhưng về khả năng bói toán thì không thể vượt qua ngưỡng của sách vở để lại. May mắn thay, trong đại hạn 32, Cự - Cơ gặp được Hoa Cái, Thanh Long nên giác quan thứ sáu có cơ hội bộc phát. Sự nhạy cảm về mặt tâm linh này sẽ giảm đi nhiều khi bước sang đại vận cung Tài. Tuy nhiên trong cái dở lại có cái hay, mất đi khả năng tâm linh nhưng tính cách của người này sẽ tốt hơn, bớt độc đoán, gia trưởng hơn vì thoát được Hoá kỵ, Tả - Hữu.

- Ví dụ 2 : Nữ mệnh - 8/6/Mậu Tuất - giờ Thân.

Mệnh Thiên Phủ đắc địa lại thêm Thiên đức, Nguyệt Đức, Phúc đức, Thiên quan, Thiên Phúc, Thanh long nên biểu hiện là người vóc dáng đầy đặn, trắng trẻo, lương thiện mộ đạo (đạo Phật) lại thêm Thiên hỷ, Mộc dục, Đào hoa nên cũng hay tạo dáng, có khiếu hài hước, được nhiều người khác phái yêu mến. Thân cư cung Quan, cung Quan có nhiều cát tinh hội tụ (Thiên Tướng, Thiên việt...) nên có thể tiến thân theo đường quan trường (và thực tế đang là công chức nhà nước cũng có địa vị). Cung quan có nhiều phúc tỉnh cho thấy, tín ngưỡng của người này cũng một phần bị ảnh hưởng từ môi trường công việc (là hướng dẫn viên du lịch nên thường xuyên phải tiếp xúc tìm hiểu về đình chùa, văn hoá dân gian nên dần dần càng mộ đạo)

Tuy nhiên điểm xấu của lá số này là Địa không - Địa kiếp rơi cả vào Tài - Quan, Cô thần - Qua tủ nhập Mệnh nên vẻ bề ngoài khi mới tiếp xúc rất dễ lầm tưởng đây là người phú quý, vui vẻ, an nhàn, đoan chính (vì chính tinhthủ mệnh là Thiên Phủ, cung Quan là Thiên Tướng) nhưng thực chất người này hay có nét mặt cau có, khó hoả đồng (Cô - Quả), hay phải lao tâm vất vả, lo lắng nhiều về tiền bạc, chặt chẽ tính toán vì Không - Kiếp trong trường hợp này là sao phá tải ghê ghớm chẳng mấy khi tích luỹ được, có nhiều hết nhiều có ít hết ít. Lại thêm Thiên không, Kiếp sát, Phục binh nên còn hay lợi dụng người khác, Đào hoa ở cung Quan khi gặp nhiều sát tỉnh lại là sao trợ thủ cho đám sát tinh để làm việc xấu - hoàn cảnh tạo nên cách ứng xử.

Cung Tật ách Vô chính diệu nên tính cách sẽ có nhiều sự thay đổi tuỳ theo từng giai đoạn của cuộc đời (đại vận) nhưng về cơ bản đây là người có suy nghĩ sâu sắc, đa cảm (Tang môn - Bạch hổ) nhưng đi kèm với (Long trì, Hoa cái, Kình dương, Văn xương, Thiên riêu) nên có tính dâm ngầm, kiêu kỳ, cảnh vẻ, thậm chí trở thành khinh người thích hư vinh (Phong cáo - Thai phụ) nhưng lại tiểu tiết, bảo thủ (Thiên hình, Thái tuế, Linh tinh). Tuy nhiên trong cung Tật có Thiên quý, Quan đới, Thiên y nên không thái quá, vẫn giữ được nét đứng đắn, đoan chính, sạch sẽ. Người này cũng dễ mắc phải bệnh dạ dày (Bệnh, Thiên trù).

Đến đại vận 42 (ở cung Tài) thì những đặc tính xấu tốt của người này càng thể hiện rõ ràng vừa mộ đạo một cách thái quá lại vừa có tính gian, thích lợi dụng người khác và đặc biệt nhất là vào đại vận Địa không - Địa kiếp sự lo lắng về tiền càng nhiều để trang trải cho cuộc sống, nhưng càng hạm kiếm tiền thì càng dễ làm chuyện mờ ám dẫn đến gặp kết quả không tốt.

Vì vận Không - Kiếp mà kèm theo cát tinh thì cũng là vận đại phát tài nhưng thường không được trong sạch cho và phát 10 thì cũng lại chỉ tiêu hết 9 không tích luỹ được nhiều. Đại vận có Đào hoa, Thiên không, Mộc dục, Thiên hỷ nên khi tiểu vận vào cung Tật gặp nhiều dâm tinh dễ dẫn đến chuyện quan hệ tình cảm đưa lại kết cục không tốt .

Dựa trên việc luận cung Mệnh và cung Tật cũng biết cá nhân có phải là người bất đắc chí hay không. Ví dụ một cung Tật tốt thể hiện sự thông minh, uyên bác với nhiều tham vọng nhưng cung Mệnh lại xấu (nhất là khi gặp Thiên khốc, Thiên hư), không gặp được vận tốt, thăng trầm vất vả hoặc non yếu thì có thể đánh giá đây là những người bất đắc chí, tham vọng hoài bão lớn mà không thành đạt được bao nhiêu. Ngược lại một cung Tật bình thường, cung Mệnh đẹp, liên tiếp gặp vận tốt thì tuy không thông minh hay có năng khiếu gì đặc biệt nhưng lại thường hay gặp may mắn, và vẫn thành đạt trong cuộc sống (trường hợp này dân gian thường gọi là thánh nhân đãi kẻ khù khờ).

Kể cả về bệnh tật cũng vậy, nếu cung Mệnh có những dấu hiệu chỉ bệnh (Bệnh, Bệnh Phù) hay dị tật thì điều này cũng được thể hiện ra ngoài dễ nhận biết, còn nếu như nằm ở cung Tật thì ám chỉ bệnh kín, bệnh nội tạng khó nhận biết.

Ví dụ : Mệnh gặp Cô thần - Quả tú thì nét mặt trông lúc nào cũng có vẻ đăm chiêu khó tính nhưng nếu cung Tật có Thiên Đồng - Thiên Lương, Tả - Hữu thì bản chất thật sự của họ lại là người bốc đồng, dễ tính nhưng tinh cách này chỉ thể hiện rõ ràng trong quan hệ với một số ít người thân cận hoặc bạn bè gần gũi.

Luận về cung Phu Thê:

1 – Cung phu thê cho biết vị hôn phu của đương số là người như thế nào và đương số sẽ có mấy lần lập gia đình. Muốn biết rõ về vị hôn phu của đương số thì cần căn cứ vào các sao tại bản cung và các sao phối chiếu. Ở đây tôi chỉ bàn về một số trường hợp gây nhiều thắc mắc.

Trong nhiều sách Tử vi từ trước đến nay đều nói về trường hợp Thân cư Thê (Phu) là những người sợ vợ, sợ chồng, nhưng thực tế không hoàn toàn là như vậy.

Muốn xác định chính xác về vị hôn phu cần phải kết hợp cả cung Mệnh và đặc biệt tới vòng Thái Tuế. Nếu một người Thân cư Phu (thể), cung Mệnh tốt, cung Phu (thê) nằm trong thế Thiếu Dương, Tam - Tứ Đức như: Long Đức, Thiên Đức, Nguyệt Đức, Phúc Đức thì đó không phải người sợ vợ mà là người rất yêu thương vợ và đồng nghĩa với việc lấy được người vợ hiền vừa ý. Nếu Thân cư Phu (Thê), cung Mệnh kém, cung Phu thê tốt, lại nằm trong thế Trực Phù, Thiếu Âm, Long Đức thì đó là người sợ vợ, phụ thuộc nhiều vào vợ (chồng). Nếu cung phu thê có nhiều sao tốt chứng tỏ một người vợ (chồng) thành đạt, có tài thì dấu hiệu sợ vợ (chồng) càng thể hiện ro.

Nếu cung Phu Thê nằm trong thế Thái Tuế - Bạch Hổ - Quan Phủ có nhiều cát tinh hội tụ thì người đó sẽ lấy được một người bạn đời cao quý thành đạt và thưởng nhờ vợ (chồng) mà vinh hiển. Nếu trên lá số cung Mệnh không tốt, hoặc cung Phu (thê) xấu có từ 2 hay nhiều hung sát tinh như Kình dương, Đà la, Hoả tỉnh, linh Tỉnh, Địa không, Địa kiếp hội tụ thì trong cuộc sống vợ chồng thường xảy ra tranh cãi, khắc khẩu, và bị vợ hoặc chồng lấn áp, Thái Tuế lúc này là sự bảo thủ, khắc khẩu, nhiều lời. Nếu lại thêm Hoá Kỵ thì người đó rất khó kết hôn vì hay gặp sự cản trở, gièm pha, nhất là khi giáp hoặc gặp Tả phù, Hữu Bật hội tụ và không hoà hợp với vợ.

Nếu cung phu thê hội tụ Tang Môn, Thiên khốc, Thiên hư, Thiên Mã là người hay phải lo lắng, gặp chuyện không vui về vị hôn phu, thường là chỉ sự chia ly, bệnh tật. Số khắc vợ, khắc chồng. Trường hợp mệnh tốt, cung phu thê tốt thì khi hạn gặp hung sát tỉnh như Địa Kiếp, Thiên Hình, Thái Tuế, Thiên Không dễ dẫn đến ly hôn.

Cung Phu (thể) có Thiên mã, Hồng Loan mà bị Tuần - Triệt thì lấy vợ (chồng) xa, ít được sống gần nhau. Cung phu thê gặp Đào hoa, Hồng loan, hội nhiều đài cát tinh thể hiện vợ (chồng) là người đẹp, có duyên nhiều người theo đuổi. Nhưng nếu thêm nhiều sao tình dục và những dâm tình mở ám như: Mộc dục, Hoa cái, Thiên riêu, Thai thì vợ chồng dễ trăng hoa.

Nếu cung phu thê nằm trong thế Long Đức - Trực Phù -Thiếu âm, đương số vẫn phải chấp nhận hoàn cảnh mặc dù biết vợ làm những việc không hay, đây thường rơi vào trường hợp những người sợ vợ. Cung phu thê lại có nhiều hung cát tinh như Địa kiếp, Kiếp sát, Kình dương, Đà la mà cung Mệnh kém, người đó dễ bị vợ (chồng) làm hại. Khi chưa kết hôn cuộc sống còn tốt khi đã kết hôn cuộc sống thay đổi theo chiều hướng xấu.

Ví dụ khi có người nói đã bỏ chồng, nhưng nhìn trên lá số cung Mệnh kém mà cung Phu thê rất tốt và ở trong thế Long Đức - Trực phù - Thiếu âm thì hãy tin rằng người này đã nói dối vì chính cô ta bị chồng bỏ rơi.

Khi trong cung Mệnh các sao không hội đủ thành cách cục trọn vẹn mà phải kết hợp với cung Phu thê mới đủ bộ thì khi người đó lập gia đình cuộc sống sẽ có nhiều thay đổi, ví dụ: cung Mệnh có Long Trì, cung Phu thê có Phượng Các thì sẽ lấy được vị hôn phu xứng đôi vừa lứa và sau khi lập gia đình cả hai vợ chồng đều trở nên sang quý. Ngược lại cung Mệnh có Địa Không, cung Phu thê có Địa Kiếp, sau khi lập gia đình, nếu đang ở vận tốt thì còn đỡ nhưng qua vận tốt thì cuộc sống sẽ rất khó khăn nhất là về mặt tài chính......

Những trường hợp cung phu thê có Tả Hữu, Thiên Đồng, Thiên Lương... thường là người có ít nhất hai vợ ( hai chồng). Nếu cung Phu (the) tốt thì lấy được những người ưng ý. Ngược lại, cuộc hôn nhân nào cũng không thuận. Trường hợp có cả sao xấu lẫn sao tốt ở trong cung Phu thê thì cần xem kỹ hạn kết hôn, nếu hạn tốt thì cuộc hôn nhân tốt đẹp, hạn xấu thì hôn nhân không thuận.

Cung Phu (thể) có Phi liêm, Thiên mã, Thanh long lấy vợ (chồng) xa, ngoại quốc hoặc hay phải kết hôn ở nước ngoài.

Cung Phu (thể) có nhiều cát tỉnh như Long - Phượng, Khoa - Quyền - Lộc, Quốc ấn, chính tỉnh miếu địa mà không bị Tuần - Triệt là người phú quý, gia đình danh giá.

Có Ân quang, Thiên quý thường lấy vợ hơn tuổi, thêm Cô thần - Qua tú, Thiên quan - Thiên phúc là người đã lập gia đình tái giá.

Những sao thể hiện hôn nhân: Đào hoa, Hồng Loan, Long trì, Phượng các, Song hao, Thiên hi, Hỷ thần.

Những sao trợ giúp hôn nhân: Tả Phù, Hữu bật, Thiên riêu, Thai

Ví dụ:

Đào hoa hội với sao Thai

Tiền dâm hậu thủ mới nên vợ chồng.

Những sao cản trở hôn nhân: Thái Tuế, Thiên hình, Phá Toái, Kiếp sát, Hoá Kỵ, Tang Môn, Địa kiếp, Địa không

Những sao góp phần dẫn đến việc khó kết hôn: Lộc tồn (chậm trễ), Đẩu quân, Cô thần - Quả tú, Thiên hư, Thiên khốc.

Một số hạn hôn nhân:

Hạn (kết hợp cả Đại hạn, tiểu hạn, Lưu niên đại hạn) gặp: Đào hoa (Hồng loan), Long trì, Phượng các, Thiên hạ, Hỷ thần (hiện nay các hạn diễn ra kết hôn thường kèm theo cả Tấu thư - đăng ký kết hôn). Có thêm Tả phù, Hữu bật khi kết hôn thường được nhiều sự trợ giúp (nếu thêm Hoá kỵ thì hôn nhân sẽ bị nhiều người cản trở - nhất là khi Hoá kỵ đóng cung Phu (thê), thêm Đại - tiểu hao sẽ có lợi trong việc chi thu tài chính (nếu có Địa không, Địa kiếp thì sẽ gặp nhiều khó khăn về tài chính).

Hạn đến hôn nhân cho dù hội đủ các sao tốt nhưng kèm theo Thái tuế, Hoá kỵ, Địa Không, Địa kiếp thì cũng khó thành nhất là gặp thêm cả Tang môn, Bạch hổ, Thiên khốc, Thiên hư.

Hôn nhân thường thể hiện rõ khi Lưu niên Thái tuế rơi vào cung Phu thể) hoặc cung Tài (khi cưới vợ thường phát tài), hoặc Đại hạn, Lưu niên đại hạn, niên hạn đến cung Phu thê kết hợp với những sao hôn nhân hoặc trợ hôn.

Trường hợp Mệnh có Đào hoa, Hồng loan thì khi hạn hội tụ nhiều những sao trợ hỗn hoặc hạn đến cung Phu (thê) mà không gặp sao cản trở, dễ diễn ra chuyện kết hôn.

Trường hợp cung Phu (thê) bị Tuần (hoặc Triệt) mà gặp hạn đến cung có Triệt (hoặc Tuần) - Tuần, Triệt phá nhau - thì khi đó sẽ luận đoán cung Phu (thê) với đầy đủ các sao hội tụ và sao hạn. Đồng thời, cung Quan sẽ được tốt hơn hay xấu đi tuỳ thuộc vào những sao trong cung Phu (the) xấu hay tốt.

Khi luận cung Phu (thê) cần chú ý đến Tuần - Triệt, nếu cung Phu (thể) có những dấu hiệu nhiều lần kết hôn, hoặc xung khắc nhưng bị Tuần - Triệt ngăn cản: Tả phù, Hữu bật, Tang môn, Thiên Mã, Thiên khốc, Thiên hư không xâm phạm được để tạo thành cách cục rõ ràng thì chỉ kết hôn một lần và không khắc. Ngược lại, cung Phu thê có nhiều sao tốt hội tụ mà bị Tuần - Triệt ngăn cản thì cũng giảm tốt.

Ở đây tôi xin bàn thêm về sự liên quan giữa sự nghiệp của vợ (chồng) sau khi lập gia đình . Trên lá số tử vi cung Quan lộc (chỉ công việc, sự nghiệp) bao giờ cũng ở vị trí chính chiếu với cung Phu thê. Khi cung Quan và cung Phu thê không bị Tuần - Triệt thì sẽ xảy ra những khả năng sau:

- Cung Phu thê tốt, tại bản cung có nhiều cát tinh hội tụ về cung Quan thì sau khi lập gia đình sự nghiệp của người đó sẽ thăng tiến hơn nhờ sự trợ giúp của vị hôn phu. Ngược lại, cung Phu thê có nhiều sao xấu thì sau khi lập gia đình, sự nghiệp của người đó sẽ đi xuống do sự cản trở của vị hôn phu hoặc phải lo lắng nhiều về vị hôn phu mà dẫn đến công việc không được thuận lợi.

- Cung Phu thê không quá tốt nhưng cũng không có nhiều hung sát tỉnh đóng tại bản cung thì thường là người lấy được vợ (chồng) hiền nhưng không trợ giúp được cho chồng (vợ) trên con đường sự nghiệp. Và nếu cung Quan, cung Mệnh tốt thì chính người vợ (chồng) sẽ được vinh hiển nhờ vào địa vị của đương số. Trường hợp này thường thấy ở những người có quyền cao chức trọng nhưng lấy vợ (chồng) hiền, có địa vị bình thường. Hoặc cung Phu (thê) tuy không tốt nhưng có nhiều cát tinh ở các cung Quan, Di, Phúc đức hội tụ làm cung Phu (thê) trở nên tốt đẹp thì đó là số của những người có tướng vượng phu hoặc giúp vợ.

Trường hợp cung Mệnh tốt, cung Quan tốt, cung Phu thê tốt, thể hiện cuộc hôn nhân đó là sự kết hợp xứng đôi vừa lứa, cả hai vợ chồng đều là những người thành đạt, có danh tiếng. Nhưng nếu trong cung Phu thê có kèm theo nhiều sao chỉ sự hình khắc, bất hoà như Thái tuế, Phá Toái.. thì vẫn có sự khắc khẩu, tranh cãi. Cung Phu thê lại nằm trong thế Long đức - trực phủ - thiếu âm thì tuy lấy được vị hôn phu phú quý nhưng cũng không cảm thấy hạnh phúc về mặt tinh thần.

2 - Những câu phú đoán chọn lọc về cung Phu thê:

Phối cung Nguyệt đức Đào Hồng ( hoặc có Thiên Đức, Phúc Đức)

Trai lấy vợ đẹp, gái làng chồng sang.

Đào Hồng ngộ Kỵ cung Phu(the)

Tơ hồng đã đứt má hồng còn vương

Vợ chồng viễn phối tha hương

Hồng Đào hội chiếu từ làng Thiên đi.

Phi liêm, Phượng các, Giải thần

Hoặc thêm Long (Thanh Long) Mã là người phương xa

Chính thẻ, thứ thiếp tề mi

Tả phù, Hữu bật Phu thê một làng.

Cao sang phú quý một nhà

Phối cung có Lộc hợp hoà Phượng Long.

Vợ về có của muôn trùng

Ân quang Nguyệt Đức Mã Đồng Thái dương.

Lộc Quyền kia cũng một đường

Tri âm của sẵn hợp phường phủ gia.

Song Lộc hội cung Phu (the)

Vợ chồng phối hợp vốn dòng giàu sang

Sao Thai mà ngộ Đào Hoa

Tiền dâm hậu thủ mới ra vợ chồng.

Phối cung Thiên Tưởng, Khôi tỉnh (Thiên Khôi)

Chinh phòng, nết sẵn thảo ngay con đầu.

Tang môn, Hư Khốc chẳng hay

Tuần - Triệt viên phổi hoạ may mới lành.

Thiên Mã cung Phối Triệt - Tuần

Vợ chồng xa cách chẳng gần được nhau.

Hồng Loan ngộ Triệt chẳng hay

Mai đi mối lại vẫn người môi thâm

Lại thêm Tang Tuế Khốc Hư

Loan phụng rẽ cảnh trong vòng trung niên.

Phu cung Hoa Kỳ giam mình

Thơ tình mối lái vài lần chẳng xong.

Đà Tham tim sắc la đà

Tuế Đà miệng lưỡi ắt là sai ngoa.

Vợ chồng nay giận mai hờn

Phục binh Hoá kỵ chiếu toà Phu thê.

Cự Môn miệng lưỡi nghi ngờ

Vợ chồng hơn thiệt chẳng nhường được nhau,

Lại thêm Hoa Kiếp gia lâm

Loan phụng rẽ cánh vài lần chẳng vui.

Phu thê Riêu Sát (kiếp sát) Hình Dương

Lại thêm Kỵ Kiếp Khốc Hư

Hại chồng (vợ) mưu kế dễ hầu biết bao.

Duyên lành phò mã ngôi cao

Thái âm đắc địa đóng vào thể cung.

Thiên Phủ vợ đảm chồng sang

Thiên Tưởng đứng đắn lạ thường

Liêm Trinh đắc địa là phường đoan trinh.

Thiên Tưởng Phượng các Long trì

Càng thêm yêu dấu mỗi ngày mỗi tăng.

Tuần - Triệt Không Kiếp giao lâm

Mối mai dang dở vài lần mới xong.

Lương Âm đã đẹp lại hiền

Cơ Lương gái sắc ở miền thê cung.

Phu thê Đồng Tướng Phục binh lại triều

Lại thêm Đào Riêu ngoại tình chẳng sai.

Cung Phu (thê) Đào Hồng tương ngộ

Vợ hay chồng đều có dung nhan

Nếu chẳng chen Quỷ Hình Tử Phủ

Kẻ săn người đón tỉnh trò gian phi

Lại thêm Thiên mã, Xương, Riêu

Ngoại dâm ong bướm lắm đường ngả nghiêng (gái giang hồ).

Việt Khôi Quyền Tướng đáng yêu

Lại gia Tử Tướng mọi chiều vinh

Phượng Long nhan sắc dịu dàng quang.

Khúc Xương Khôi Việt ấy làng tài hoa.

Binh Hình gặp Hoa Kỳ xung

Đêm ngày cư xử ra lòng bạc đen.

Tang Môn Hư Khốc phận hèn

Hoặc là làm lẽ hoặc phen ly tình.

Đồng Lương ấy hội nơi cung Phổi

Hai vợ ắt một tổ tông đó mà.

Cự Đồng cùng hội cung Phu (the)

Một sầu goá bụa hai sầu lỡ duyên.

Cô Quả Tang Hổ Khốc thường tóc tang.

Địa kiếp, Hồng loan nơi cung phổi,

Cung mệnh tốt duyên ấy trăm năm

Mệnh xấu duyên đứt tơ tằm

Sinh ly sẽ định loan phòng 10 năm.

Tang Mã mà ngộ Đào Hồng

Gặp sao Linh Hoả vợ chồng khắc xung.

Thê cung Nguyệt Khúc (Văn khúc) trung tàng

Ra tay bẻ quế đông sàng thềm cung.

Thiên tướng mà ngộ Đào Hồng

Gặp sao Linh Hoả, ẩm tửu ba hoa là tình (thành vợ chồng).

Cung Phu thê cũng như cũng Mệnh thay đổi theo từng vận trình, không cố định. Những tính chất thể hiện trong cung Phu thê chỉ mang tính ước định khái quát chứ không nhất thiết cố định như vậy. Muốn biết rõ hơn về cung Phu thê phải kết hợp với các cung vận. Nếu cung Phu thể thể hiện sự phú quý nhưng vận gặp Địa kiếp, Thiên không, Đà la thì cũng vẫn phải gian lao vất vả. Ngược lại cung Phu thê yếu kém nhưng hạn gặp Khoa - Quyền - Lộc thì vợ (chồng) cũng là người có địa vị....

* Trường hợp truyền tinh giữa hai lá số: nếu 2 người có duyên số vợ chồng thì trong cung Phu(thể) của vợ sẽ có 1 hoặc nhiều sao trùng với sao trong cung Mệnh của chồng và ngược lại. Trường hợp này cũng có thể áp dụng để xem xét sự truyền tinh giữa cha và con.

Luận về cung Phúc đức:

1 - Các chính tỉnh ở cung Phúc cho ta thấy trạng thái nổi bật mang

tính căn bản nhất của quan hệ trong họ tộc, ví dụ như: Thất sát đóng cung Phúc: Miếu địa, khá giả, có nhiều người làm quan chức trong quân đội, cảnh sát, hoặc các ngành nghề mang tính chất quân sự, đối xử với nhau có nghĩa khí. Hãm địa thì suy bại, ít người, giang hồ, trộm cắp, đối xử với nhau không tốt; Cự Môn đóng cung Phúc đức chỉ họ hàng thường hay bất hoà vì miệng tiếng. Nếu miếu địa, cát tinh hội tụ thì có nhiều người vinh hiển, làm quan văn. Hãm địa hay tranh cãi, kiện tụng, bôn ba vất vả, Thiên phủ đóng cung Phúc đức chỉ dòng họ lớn, nhiều người, phú túc, nếu miếu địa và nhiều cát tinh hội thì dễ dàng vinh hiển, ngược lại bị hung sát tinh xâm phạm thì nghèo đói, vất vả.

Kết hợp với các phụ tinh sẽ biết rõ hơn về họ tộc của một cá nhân. Lộc tồn chủ đa đinh, Long trì - Phượng các chỉ sự phong lưu, nhiều người đẹp, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt chủ về văn chương học vấn đỗ đạt, Quốc ấn, Hoá quyền chỉ nhiều người làm quan chức có quyền tước, Đại - tiểu hao, Địa không, Địa kiếp là họ hàng nghèo đói, ly tán, Hoá kỵ chỉ hay nghi ngờ, gièm pha, tranh cãi, Thiên đức - Nguyệt đức - Phúc đức chi họ hàng sống hiền lành, lương thiện, Tướng quân gặp Triệt là có người đột tử, chết trận; Lưu hà, Phong cáo - Phai phụ họ hàng nhiều người làm nghề dạy học, Tang Mã Khốc Hư chủ có người chết trẻ, hình khắc họ hàng, Trường sinh chỉ dòng họ có nhiều người cao tuổi, sống thọ ......

Các phụ tỉnh còn thể hiện cả về âm phần của họ nội (họ cha). Ví dụ: cung Phúc đức có cát tinh hội tụ là nhà có mộ phát như: Thanh Long, Hoa cái, Ân quang, Thiên quý (chủ việc tâm linh), Đào hoa (mộ phát lâu đời), Hoá khoa (chủ công danh), Hoá quyền (quan chức), Hoá Lộc (tiền bạc), Cô thần, Qua tủ là có người chết trẻ linh thiêng, Long trì - Phượng Các, Tam thai - Bát toạ chủ mồ mả được xây cất cẩn thận. Nếu gặp Tuần - Triệt thì những tính chất này bị chiết giảm, không thể hiện rõ ràng, âm phần có đất tốt nhưng vận khí chưa kết phát phải đợi thời. Khi vận đến cung Phúc đức hoặc khi Tuần - Triệt tự tháo gỡ nhau thì lúc đó đương số mới được hưởng.

Cung Phúc đức của một người cho thấy hoàn cảnh gia tộc khi người đó ra đời cũng như sự tương tác giữa cá nhân với dòng họ (sự ảnh hưởng này có thể về âm dương - ngũ hành hoặc là những việc làm cụ thể). Dòng họ cũng là một nguyên nhân kiến tạo để một cá nhân được hình thành nên khi được sinh ra thì tất có sự liên quan và tương tác trở lại với các thành viên trong gia tộc. Cùng sinh ra trong một gia đình nhưng có người được thụ hưởng phúc đức của giòng họ nhưng có người phải gánh chịu những hậu quả xấu, hay có người sẽ gây dựng dòng họ vinh vượng, có người lại làm dòng họ suy bại mang đến những việc không hay. Chính vì vậy mà cung Phúc đức trên lá số của mọi người trong một gia đình và dòng tộc là không giống nhau. Ví dụ người cung Phúc xấu nhưng Thiên di, cung Tài, cung Phu thê có nhiều sao tốt hội tụ về cung Phúc là người khi sinh ra thì dòng họ đang suy bại nhưng đến đời của người này thì sẽ có công chấn hưng dòng họ. Ngược lại cung Phúc không tốt mà cung Thiên di, cung Tài, cung Phu thê có nhiều sao xấu hội tụ lại không có Tuần - Triệt ngăn cản thì người đó sẽ làm cho dòng họ suy bại thêm. Cung Phúc tốt, có nhiều cát tinh thì đương số sinh ra trong dòng họ danh giá được thừa hưởng phúc ấm của dòng họ (xét theo lý duy vật thì đó là được thừa hưởng danh tiếng tốt của dòng họ, hoặc được sự giúp đỡ của mọi người về tinh thần và vật chất trong cuộc sống), nhất là đối với những người Thân cư Phúc đức. Cung phúc đức, Phu thê, Tài bạch, Thiên Di đều xấu thường rơi vào trường hợp của những người nghèo khổ phải lưu tán xa quê cha đất tổ đến nơi khác sinh biểu hiện rõ nét nhất khi cung Phúc đức hội hợp Tang - Mã - Khốc - Hư, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp. Những người cung Phúc đức bị Tuần - Triệt không được sự trợ giúp nhiều từ cung Phúc đức mà cũng thường phải xa quê cha đất tổ, tự thân lập thân.

2 - Phú đoán cung Phúc có chọn lọc:

Phúc cung có kẻ chiến chinh

Tướng Binh Ân Kiếm (Thiên hình) đóng thành ba phương

Cự môn hãm địa khẩu thiệt đa đoan.

Miếu cung Lộc Tưởng tương phùng

Ấy là phát phúc trùng trùng thịnh hưng. Vũ Tham Thiên Phủ Khoa Quyền

Cũng phát võ nghiệp cũng đa anh hùng Sát Phá Liêm Tham hãm, ngộ Kiếp Không

Họ hàng lắm kẻ hành hung ở ngoài.

Đào Hồng Riêu Kỵ sao Thai

Tôn thân có kẻ đa tình loạn phong.

Tẩu thư Xương Khúc tương phùng

Tôn thân có kẻ thần đồng hiện ra.

Việt Khôi lại gặp Đào Hoa

Làm nên sự nghiệp phúc nhà khá mong.

Tử (vi), Dương nhập miếu vượng cung

Lại thêm Tướng (quân) Ẩn Khoa Quyền Lộc trung

Phát đến có kẻ triều trung quý quyền.

Trường sinh - lực sỹ kỳ viên

Tôn thân lắm kẻ thọ cao trong làng

Tang Môn, Cô - Qua chẳng hay

Nếu không chết trẻ cũng người quả phu (có người chết trẻ hoặc giả bụa).

Trường sinh Đế vượng hai phương

Ắt là trong họ thịnh đường nhân đinh.

Tuế phù tụng sự tương tranh Lộc tồn, cô – quả độc đinh đó mà.

Tướng Binh Tử Tuyệt phải là

Có người tử trận phương xa thua nào.

Thiên hỷ, Hỷ thần tốt sao

Ấy là đất quý được màu vui tươi.

Thiên quan, Thiên phúc tốt lành

Vượng đường quan trưởng thân vinh chẳng ngờ.

Khôi Khoa Xương Khúc Tẩu thư

Phát đà văn học có dư anh tài.

Vũ khúc vượng địa chẳng sai

Phúc cung ắt hẳn hài hoà vũ ban.

Tang môn, Linh Hoa chở màng

Thường sinh hoả hoạn trong hàng tộc tôn.

Đà la, Không Kiếp Tuyệt lâm

Đẹp gì trong họ, ắt rằng suy hao.

Song hao, Không Kiếp phúc cung

Họ hàng ly tản cậy trông nỗi gì.

Ví dụ 1: Nam mệnh - 8/ 9/ Bính thìn - giờ Tí

Phúc đức lập tại cung Ti, Thái dương hãm địa, hung cát tinh không nhiều nên xuất thân từ dòng họ bình thường. Tả phù đóng cung Phúc là có "mà cứu bần" (khi nào hết tiền lại có người trợ giúp), biểu hiện cụ thể trong cuộc sống là luôn được sự trợ giúp của người cùng giới khi gặp khó khăn và người này cũng hay giúp đỡ người khác nhưng vì bị Tuần nên người này không chịu ảnh hưởng nhiều của dòng họ, thêm đó cung Thiên di bị Triệt nên sẽ phải xa quê lập nghiệp chỉ khi hạn đến cung Phúc thì Tả phù mới phát huy tác dụng với đương số.

Ví dụ 2: Nam mệnh - 14/3/Tân Hợi - giờ Dậu.

Cung Phúc lập tại Dậu, có Thiên Phủ cho thấy họ hàng đông đảo, phúc thiện. Hội Lộc tồn, Đế vượng - đa đỉnh; Mộ, Điếu khách, Hoa Kỳ, Địa giải - nhiều người ham chơi bởi cờ bạc. Cung Thiên di có thêm nhiều sao cát tinh như Văn xương, Văn khúc, Hoả khoa, Ân quang, Thiên quý nên dòng họ cũng khá vinh hiển, nhiều người thành danh và người này cũng sẽ góp phần xây dựng lại dòng họ nhờ vào học vấn và quan hệ xã hội. Vì những cát tỉnh không đóng tại cung Phúc, chủ yếu hội tụ từ cung Thiên di, nên thực tế dòng họ này đã suy nhiều nhưng đến đời của người này thì đã có sự khởi sắc trở lại.

Ví dụ 3: Nữ mệnh - 8/10/Ất Mão - giờ Mùi

Phúc đức lập tại cung Ngọ, Thiên lương miếu địa, Hoá quyền, Lưu niên văn tinh, Thiên hỷ, Hoá lộc, Hỷ thần hội tụ cho thấy dòng họ có nhiều người thành đạt, Thiên riêu - Thiên y, Thiên hình là trong họ có nghề làm thuốc nhưng lại kèm theo Hoá kỵ, Địa Kiếp, Kinh dương, Tiểu hao, Thiếu âm - Trực phù - Long đức nên đến khi sinh ra thì dòng họ đã suy, nghèo, phải xa cách ly tán. Mặc dù Thân cư Phúc đức nhưng người này cũng ít được hưởng phúc của dòng họ để lập nghiệp mà bị ảnh hưởng những chuyện không vui từ cung Phúc đức nhất là khi hạn đến cung Phúc. Mệnh có Địa Không, Thiên không, cung Phúc đức có Địa Kiếp, Thiên hình hội Hoá kỵ khi hạn đến cung Phúc đức (24 - 33) tuy gặp Hoá Quyền, Hoá Lộc, Thiên hỷ, Hỷ thần nên tuy sự nghiệp khá thuận lợi nhưng cũng không giữ được tiền mà vẫn luôn phải vất vả. Tuần ở tí - sửu tháo Triệt ở ngọ - mùi Đào hoa, Hồng loan tương hội nên gặp cả chuyện tình cảm nam nữ sâu đậm nhưng vì gặp cả Tam không, Hoá kỵ nên vẫn không thành. Năm 32 tuổi khi đại tiểu hạn trùng phùng sẽ gặp chuyện xấu hao tán tài sản sự, nghiệp thậm chí nguy hiểm đến tính mạng.

Luận về cung Điền Trạch:

1 - Trên lá số cung Điền trạch không chỉ đơn thuần thể hiện tình trạng trạng nhà đất của một người mà còn cho biết cả tâm tư tình cảm của cá nhân khi ở trong ngôi nhà của mình. Ví dụ Long trì - Phượng các, Tam thai, Bát toạ đóng cung Điền là nhà cao cửa rộng, có Thiên hỷ, Nguyệt đức là khí nhà vui vẻ hoả thuận, có Cô thần - Quả tú là trên đất ở có mộ cổ hoặc ma quái và người này khi về nhà thường có lối sống khá cô độc ít hoà hợp với người thân; Tấu thư đóng cung Điền trong nhà tích trữ nhiều sách... Cung điền có nhiều văn tinh thì không phải dấu hiệu của nhiều nhà đất. Về cơ bản khi luận cung Điền có nhiều sao chỉ sự đài các hoặc sung túc như Thái âm, Thiên cơ, Vũ khúc, Thiên phủ, Liêm trinh, Thiên tướng, Thai Toạ Long - Phượng, Tả phù, Hữu bật, không bị Kiếp - Không xâm phạm hoặc Tuần - Triệt thì nhà cửa vịnh vượng. Nếu Mệnh - Tài - Quan cũng tốt, mà có cả Không - Kiếp hội chiếu thì không thể kết luận là người nghèo về điền trạch mà là người có nhiều nhà đất hợp với nghề kinh doanh bất động sản nhất là khi có Đường phù. Ngược lại, Mệnh - Tài - Quan xấu cung Điền lại có nhiều hung tỉnh xâm phạm thì gia đạo rối ren, nhà cửa chật hẹp, nếu Không - Kiếp xâm phạm vào bản cung thì nhà nghèo hoặc chỉ ở nhà đi thuê.

Và có thể kết hợp cung Điền khi luận giả về mối quan hệ giữa cá nhân với người thân trong gia đình. Ví dụ khi cung Điền trạch có Hoá kỵ, hoặc Thái tuế, Cô thần - Quả tủ, mà cung Phu thê có hung sát tinh xâm phạm thì phải luận là tình cảm vợ chồng không đằm thắm. Hoặc có Tang mã khốc hư thì khí nhà không tốt, hay có chuyện buồn phiền.

Tuy nhiên cần chú ý, những sao trong cung Điền trạch không hoàn toàn quy định tình trạng nhà cửa điền trạch của đương số trong cả cuộc đời mà nó thay đổi theo từng vận trình khác nhau. Cung điền xấu nhưng vào vận tốt thì vẫn có nhà đẹp mặc dù đi thuê, hoặc cung điền tốt mà mệnh xấu, vận xấu thì vẫn phải ở nhà rách nát, chật hẹp cho đến khi ra khỏi vận đó.

Vận đến cung Điền không chỉ liên quan đến chuyện nhà cửa đất đai mà còn cho biết việc của những người thân trong gia đình (ông - bà, cha - mẹ, anh - em, vợ - con). Ví dụ vận đến cung Điền trạch gặp Tang Mã Khốc Hư thì cần phải chú ý đến những năm tiểu vận và Lưu niên Thái tuế nhập vào cung lục thân.

6.2 - Những câu phú chọn lọc về cung Điền:

Hoa tỉnh đóng ở cung Điền

Tượng là lửa chảy mấy lần hoả tại

Hoả kỵ Tham (lang) diệu đồng sàn

Gia trung thất vật gian dâm loạn tàn

Điền trạch Thái tuế, Kỵ tinh

Lời ăn tiếng nói gia trung bất hoà

Nếu như sao Tử đóng điền

Tổ tiên chôn của ở trên đất nhà

Nhược bằng Tuyệt hãm cung điền

Năm lần bảy lượt chẳng mua được nhà (mặt phố).

Cô thần - Qua tủ hai sao

Đóng vào điền trạch trong nhà có ma

Phục binh đóng tại cung Điền

ở nơi trộm cắp thường xuyên ra vào

Thiên hình Tấu (thư) Tuế (phù) ở điền

không bị trộm cắp cũng quan binh khám nhà

Tả phù - Hữu bật hai sao

nếu không Tuần - Triệt, có thêm ruộng vườn

Hóa lộc đóng ở cung Điền

Dẫu không buôn bản cũng sinh tiền tài.

Long Phượng Thai Toạ đóng cung

Cho dù mệnh hãm, các đài nghênh ngang.

Phương pháp tính vận hạn một lá số tử vi

Khi luận một lá số Tivi trước tiên cần quan sát toàn cục lá số để nhận định về Mệnh - Tài - Quan tốt hay xấu, sau đó mới tiếp tục xét đến các cung khác và các đại - tiểu vận. Khi tính vận, ta thường tính đại vận 10 năm, niên vận ( tiểu vận) trong một năm, thậm chí còn tính đến cả vận tháng( nguyệt vận), nhật vận ( vận trong một ngày), thời vận( thời vận trong từng giờ). Trong ngôn từ thông dụng từ vận thường được thay thế bằng từ hạn, nhưng nên gọi chính xác là vận thì đúng hơn để tránh gây sự hiểu lầm vì hạn thường tạo sự liên tưởng đó là khoảng thời gian có hạn, tai nạn. Tuy nhiên theo thói quen thông thưởng chúng ta có thể hiểu vận đồng nghĩa với hạn.

Ngoài những kiến thức Tivi, điều kiện cần thiết đối với người luận giải lá số Tử vi là phải có tư duy phân tích và tổng hợp tốt, có hiểu biết nhất định về những vấn đề trong cuộc sống con người.

Đại vận (đại hạn):

Đại vận là thời gian 10 năm con người chịu ảnh hưởng của sự vận chuyển của Âm - Dương Ngũ hành trong vũ trụ thể hiện dưới tính chất của các sao trong cung đại vận. Khi vận đến cung nào thì trong 10 năm mọi sự việc diễn ra trong cuộc sống đều chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ cung đó. Sự xấu tốt, thành công lớn hay thất bại đều phụ thuộc rất lớn vào gốc đại vận.

- Tính đại vận 10 năm:

a - Trước hết ta viết số của Cục để xác định thời gian của đại vận. Khởi từ cung Mệnh Thuỷ nhị cục viết số 2, Mộc tam cục viết số 3, Kim tử cục viết số 4, Thổ ngũ cục viết số 5, Hoa lục cục viết số 6. Từ cung Mệnh nếu là

Dương nam, Âm nữ tính thuận; Âm nam, Dương nữ tinh nghịch viết 12, 22, 32, 42....(13, 23, 33, 43....) vào các cung kế tiếp.

Ví dụ :

- Nam sinh năm 1980 (Canh thân - dương nam), Mộc tam cục: Từ cung Mệnh viết là 3, cung Phụ mẫu viết 13, Phúc đức viết 23, Điền trạch viết 33... - Nam sinh năm 1981 (Tân dậu - âm nam), Hoa lục cục: Từ cung Mệnh viết là 6, cung Huynh đệ viết 6, Phu thê viết 16, Từ tức viết 26, Tài bạch viết 36....

- Nữ sinh năm 1980 (Canh thân - dương nữ), Mộc tam cục: Từ cung Mệnh viết 3, cung Huynh đệ viết 13, Phu thê viết 23, Tử tức viết 33

- Nữ sinh năm 1981 ( Tân dậu - âm nữ), Hoa lục cục: Từ cung mệnh viết 6, cung Phụ mẫu viết 16, cung Phúc đức viết 26....

Sau khi đã biết thời gian vận chuyển của đại vận thì ta cũng biết thời gian nào con người chịu ảnh hưởng của của những sự vận hành của các nguồn năng lượng Âm - Dương ngũ hành biểu hiện dưới tính chất của các

sao.

Ví dụ : Nam mệnh - 1/4/ Kỷ mùi - giờ Sửu; Mộc tam cục:

- Bắt đầu từ năm 3 tuổi chịu ảnh hưởng mạnh của các sao trong cung Mệnh - Tải - Quan - Di vì Đại vận nằm ở cung Mệnh.

- Từ 13 tuổi chịu ảnh hưởng của các sao trong cung Huynh đệ - Tật ách - Nô bộc - Điền trạch vì Đại vận đến cung Huynh đệ.

- ......

* Theo thời gian, khi muốn luận đoán cung nào thì cần phải kết hợp các sao tại cung đó với các sao tại cung đại vận và các sao ở các cung xung chiếu của đại vận để luận đoán cho chính xác.

Tính Lưu niên của đại vận:

Lưu niên đại vận cho biết những sự việc quan trọng xảy ra với có liên quan với cá nhân trong đại vận. Lưu niên đại vận rơi vào cung nào thì cung đó xảy ra sự thay đổi quan trọng. Ví dụ Lưu niên đại vận rơi vào cung Phu thê thì năm đó những sự việc quan trọng xảy ra có liên quan lớn tới cung Phu thê. Khi luận đoán cung Lưu niên đại vận cần kết hợp với các sao ở cung Niên vận hàng năm (Tiểu vận)

- ví dụ : LNĐV 29 tuổi của người Dương nam - Thổ Ngũ Cục, có Mệnh đóng tại cung Tỵ sẽ ở cung Dần. Bắt đầu từ cung Đại vận tính là năm 25 tuổi (năm đầu tiên của Đại vận 25 - 34) cung Sửu vừa thể hiện năm 26 và 28 tuổi.

Hình 230

Tính Niên vận hàng năm (Tiểu vận):

Khi tinh tiểu vận cần căn cứ vào cung khởi của tam hợp tuổi.

- Tuổi Thân - Ti - Thìn > khởi tại cung Tuất

- Tuổi Dần - Ngọ - Tuất > khởi tại cung Thìn

- Tuổi Tỵ - Dậu - Sửu > khởi tại cung Mùi

- Tuổi Hợi - Mão - Mùi > khởi tại cung Sửu.

Nam (Dương nam, Âm nam) từ cung quy định khởi thuận chiều kim đồng hồ

Nữ (Dương nữ, Âm nữ) từ cung quy ước khởi nghịch chiều kim đồng hồ.

Trên lá số Tivi để tiện cho việc quan sát Niên vận thường được đánh dấu bằng những địa chỉ ghi ở vòng trong của Thiên bàn. Ví dụ: nam giới tuổi Giáp Ngọ - Tiểu vận sẽ bắt đầu tính từ cung Thìn. Ghi chi Ngọ vào cạnh cung Thìn, ghi chỉ Mùi vào cung Tỵ, ghi chi Thân vào cung Ngọ.... Nếu là nữ tuổi Giáp Ngọ - Tiểu vận cũng bắt đầu tính từ cung Thìn nhưng tính ngược chiều kim đồng hồ, ghi Ngọ ở cung Thìn, Mùi ở cung Mão, Thân ở cung Dần....

Hình 232

Ví dụ:

- Nam tuổi Kỷ mùi (Âm nam) khởi tại cung Sửu tính là 1 tuổi khởi thuận đến năm 13 tuổi tiểu vận sẽ quay lại cung Sửu, năm 24 tuổi tiểu vận sẽ rơi vào cung Tý.

- Nữ tuổi Kỷ mùi (Âm nữ) khởi tại cung Sửu tính là 1 tuổi khởi nghịch đến 13 tuổi tiểu vận sẽ quay lại cung Sửu, năm 24 tuổi tiểu vận sẽ rơi vào cung Dần...

Khi luận những sự việc diễn ra trong một năm cần kết hợp các sao của cung Đại vận, Tiểu vận và Lưu niên đại vận. Tiểu vận một năm rất quan trọng nó là định hướng xét đoán tốt xấu của cung tiểu vận và xả cung Lưu niên đại vận. Vận đến cung nào cung đấy chịu ảnh hưởng. Cung Lưu niên đại đại vận phụ thuộc rất nhiều vào Đại - Tiểu vận, Đại - Tiểu vận tốt thì Lưu niên đại vận tốt, Đại - Tiểu vận xấu thì Lưu niên đại vận xấu

Nếu cung Đại vận xấu, Lưu niên đại vận xấu mà Tiểu vận tốt thì năm đó mọi việc diễn ra ở mức độ bình thường, đỡ xấu. Nếu cung Tiểu vận rất tốt, ví dụ hội đủ Khoa - Quyền - Lộc...thì sẽ phản vi kỳ cách, biến xấu thành tốt cho tất cả các cung, nhưng thường khi hết tiểu vận thì sẽ gặp kết cục xấu vì gốc đại vận xấu. Ngược lại nếu Tiểu vận cũng xấu thì năm đó những sự việc xảy ra đều rất xấu nhất là khi Đại - Tiểu vận trùng phùng.

Nếu cung Đại vận tốt, Lưu niên đại vận tốt mà tiểu vận xấu thì mọi việc diễn ra trong năm đó ở mức độ bình thường. Nếu cả Đại vận - Tiểu vận đều tốt thì mọi chuyện rất tốt đẹp, giống như gấm thêu hoa, nhất là khi Đại - Tiểu vận trùng phùng. Khi tính vận cần xét xem đại vận nào tốt, đại

vận nào xấu; trong đại vận thì năm nào là tốt nhất, năm nào xấu nhất.

  • Đại - Tiểu vận trùng phùng là khi Tiểu vận trùng với Đại vận tại cùng một cung và kể từ khi Đại - Tiểu vận trùng phùng thì sự việc trong Đại vận đó nếu xấu thì rất xấu ngược lại tốt thì rất tốt .
  • Khi luận Tiểu vận cần lưu ý kết hợp các sao tại cung gốc Đại vận và các sao tại cung của Tiểu vận để luận đoán. Ví dụ gốc Đại vận có Thái tuế, Tiểu vận gặp Hoa kỵ thì năm Tiểu vận đó sẽ xảy ra những chuyện điều tiếng không hay, nhất là sẽ cản trở việc cưới hỏi, lập gia đình.; Gốc Đại vận có Phong cáo - Thai phụ, Tiểu vận gặp Hoá Khoa thì năm đó đường công danh sẽ rất tốt, dễ dàng được phong thưởng hay tạo được danh tiếng.

Ví dụ: Nam mệnh 1/4/Kỷ mùi - giờ Sửu:

Đại vận 23 - 32 ở cung Thê, năm 26 tuổi Tiểu vận cũng ở cung Thế, như vậy là Đại - Tiểu vận trùng phùng. Từ năm 26 tuổi đến hết đại vận 23 - 32 (năm 32 tuổi) tính chất của các sao trong cung Đại vận thể hiện rất rõ ràng, tốt thì tốt gấp đôi, xấu thì xấu gấp đôi.

* CHÚ Ý:

Tính năm tiểu vận chỉ bắt đầu được tính kể từ ngày sinh của cá nhân, trước ngày sinh chưa được tính là nhập vận - đây là chìa khoá quan trọng trong Tử vi.

Trong sách vở hiện nay, chưa sách nào chỉ ra cách tính tiểu vận đúng, tất cả đều tính theo cách thông thường, ví dụ, người sinh 15/12/Tân dậu (1981) - nam giới, theo cách tính từ trước đến nay đều cho rằng năm Ất dậu (2005) tiểu vận sẽ nằm ở cung Mùi, nhưng như vậy là sai lầm. Chỉ khi thực sự thành hình thì con người mới hội tụ đủ ngũ hành và chịu sự tác động của những quy luật tự nhiên và xã hội, nên đến ngày 15/12/ Ất dậu (2005) thì mới đủ 25 tuổi và khi đó vận mới nhập vào cung Mùi. Từ trước ngày 15/12/ Ất dậu vẫn thuộc Tiểu vận ở cung Ngọ.

Ví dụ: Dương nam - 20/12/ năm Canh thân - giờ Mùi:

Tháng giêng, năm ất dậu (2005) xuất ngoại du học, theo cách tính thông thường từ trớc đến nay thì tiểu vận năm Ất dậu, không gặp Thiên Mã và những sao di chuyển nhưng vẫn xuất ngoại. Nhưg thực tế vì người này sinh 20 tháng 12 nên đến 20 tháng 12 năm Ất dậu mới bước sang tuổi 26, lúc đó tiểu hạn mới nhập cung Nô bộc ở Hợi. Năm Ất dậu (2005) xuất ngoại là vì tiểu hạn vẫn đang ở cung Quan lộc (Tuất) gặp Phi liêm, Thiên Mã, Hoa khoa, Thanh long... mặc dù gốc đại vận có Lộc tồn nhưng cũng chỉ làm chậm trễ chứ không ngăn cản được chuyến đi của người này.

Chính vì không hiểu điều này mà nhiều người khi thấy tiểu vận không có Hỷ thần, Long trì, Phượng các, có Hoá kỵ, Đẩu quân, Cô - Quả .. mà vẫn kết hôn thì lại quy kết cho đó là kỳ cách hoặc quy ước sai về tính chất các sao, các cách cục nên sản sinh ra hàng loạt các câu phủ đoán vô nghĩa.

An sao Lưu hàng năm của Tiểu vận:

Sau khi đã tỉnh Đại vận, Lưu niên đại vận, Tiểu vận chúng ta cần an thêm 9 sao Lưu hàng năm để hiểu rõ hơn về những sự việc xảy ra trong năm đó. Các sao Lưu thay đổi vị trí theo từng năm và chỉ có ý nghĩa trong năm đó. Bao gồm: Thái tuế, Tang môn, Bạch hổ, Thiên khốc, Thiên hư, Thiên mã, Lộc tồn, Kình dương, Đà la.

1 - An lưu Thái tuế:

Dựa vào địa chỉ của niên vận để an Lưu Thái tuế. Ví dụ năm 2005 là Ất Dậu thì an Lưu Thái tuế vào cung Dậu, năm Bính Tuất, an Lưu Thái tuế vào cung Tuất. Không cần biết Đại vận, Tiểu vận hay Lưu niên đại vận rơi vào cung nào ta chỉ cần căn cứ vào địa chỉ của niên vận hàng năm mà an Lưu Thái tuế.

2 - An Lưu Tang môn - Bạch hổ:

Lưu Tang môn cách lưu Thái tuế một cung theo chiều thuận.

Lưu bạch hổ ở cung xung chiếu với lưu Tang môn.

Ví dụ: Lưu Thái tuế ở Thân (cung Thân trên lá số) thì an lưu Tang môn ở cung Tuất, lưu Bạch hổ ở cung Thìn.

3 - An lưu Thiên khốc - Thiên hư:

Cũng giống như an Thiên khốc, Thiên hư của lá số. Từ cung Ngọ tính là cung Ti, đếm nghịch đến năm niên vận dừng ở cung nào an Thiên khốc ở đó; đếm thuận đến niên vận dừng ở cung nào an thiên hư ở đó.

Ví dụ: năm 2004 - năm niên vận là Giáp Thân. Từ cung Ngọ khởi là Tí đếm nghịch đến Thân dừng ở cung Tuất an Thiên khốc; đếm thuận đến Thân dừng ở cung Dần an Thiên hư.

4 - An lưu Lộc tồn - Kình dương - Đà la:

Dựa vào Thiên can của Niên vận để xác định vị trí của lưu Lộc tồn. Lộc tồn luôn đóng ở vị trí Lâm quan của Thiên can trong bảng Trường Sinh.

Kình dương, Đà la luôn đóng ở hai bên Lộc tồn. Đà la luôn đóng ở cung tứ mộ trên lá số (vị trí Quan đới của can năm trong bảng Trường sinh), Kinh Dương luôn đóng ở vị trí Đế vượng trong bảng Trường Sinh của can năm.

Can Niên vận Giáp Ất Bính - Mậu Đinh - Kỷ Canh Tân Nhâm Quý
Vị trí lưu lộc tồn Dần Mão Tỵ  Ngọ Thân Dậu Hợi
Kình dương Mão Dẫn Ngọ Tỵ Dậu Thân Hợi
Đà la Thìn Sửu Thìn Mùi Mùi Tuất Tuất Sửu

5 - An lưu Thiên mã:

Dựa vào địa chỉ của niên vận để an lưu Thiên mã.

Ví dụ: niên vận năm 2004 - Giáp Thân, an Thiên mã ở cung Dần.

Chi của niên vận Vị trí của Thiên Mã
Thân - Tý - Thìn Dần
Dần - Ngọ - Tuất Thân
Tỵ - Dậu - Sửu Hợi
Hợi - Mão - Mùi Tỵ

*Lưu Thái tuế rơi vào cung nào trên lá số thì ám chỉ cung đó sẽ có nhiều biến đổi quan trọng trong tiểu vận, sự tốt xấu tùy thuộc vào sự hội tụ của các sao trong cung đó và Đại - Tiểu vận là tốt hay xấu.

Lưu thái tuế rơi vào cung nào thì còn có nghĩa tính chất của các sao trong cung đó năm đấy được kích hoạt mạnh mẽ và ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của cá nhân trong năm. Sự biến đổi tốt xấu phụ thuộc vào Đại - Tiểu vận tốt hay xấu.

Ví dụ: nam giới: 17/1/ Canh thân - giờ Hợi

- Tiểu hạn năm 2007 (Đinh Hơi) lưu Thái tuế nhập cung Tài có Hoá Lộc, song Hao, Văn xương, Lưu niên văn tinh; Đại vận có Hoa khoa, Hoá lộc, Song Hao. Tiểu vận ở cung Phu thê, Lưu niên đại vận ở cung Tải gặp Hóa lộc nên năm 2007 nhất định sẽ phát tài, sự chi tiêu cũng nhiều (Song Hao) nhưng mang tính chất đầu tư để làm chủ (Tẩu thư, Đường phù). Cung Tài phát động, Đại Tiểu vận gặp nhiều cát tinh nên phát tài.

Ví dụ: nữ giới: 18/1/ Quý sửu - giờ Sửu

- Tiểu vận năm 2005 (Ất Dậu) lưu Thái tuế nhập cung Tài, Thiên Hình, Đại hao, Linh tỉnh, Bạch hổ bị phát động; Đại vận bị Tuần, có sẵn Tiểu hao, Tang môn; Tiểu vận gặp Đà la, Bệnh nên không tránh khỏi bệnh tật mà lo lắng hao tốn nhiều tiền, may mắn là Hoá khoa trong cung Tài cũng được phát động nên sự hao tán này được việc chứ không vô ích, tức là tốn nhiều tiền nhưng sẽ chữa được bệnh.

- Cũng là lưu Thái tuế nhập cung Tài nhưng có người thì phát tài có người thì hao tán.

*Lưu Tang - Hổ - Khốc - Hư cho biết những việc phải lo lắng, buồn thương xảy ra tại các cung mà có các sao lưu này hội tụ. Sự buồn thương, lo lắng này có thể dẫn tới việc tốt hay xấu tuỳ thuộc vào Đại - Tiểu vận tốt hay xấu.

Bộ sao Tang Mã Khốc Hư chỉ sự lo lắng buồn phiền, có vai trò rất quan trọng trong việc luận đoán sự sống chết. Khi bản thân lo buồn thì thân nhân thường có nạn, khi thân nhân lo buồn thì chính bản thân gặp nạn.

Ví dụ:

- Nếu lưu Tang - Hổ - Khốc - Hư rơi vào cung Tài, Đại - Tiểu vận tốt thì năm đó dễ có chuyện lo lắng đầu tư về tài chính để thu lợi, phát tài. Nhưng nếu Đại - Tiểu vận xấu thì năm đó sẽ phải buồn phiền lo lắng vì hao tán tiền của.....

- Nếu lưu Tang - Hổ - Khốc - Hư nhập vào cung Phụ mẫu hoặc Điền trạch, Đại - Tiểu vận xấu thì dễ có chuyện buồn về cha mẹ hoặc gia đình. Nhưng nếu Đại - Tiểu vận tốt thì cũng có sự lo lắng nhưng lo lắng có tính chất xây dựng đem lại kết quả tốt như: cha mẹ khỏi bệnh, xây dựng nhà cửa, hoặc trong gia đình có chuyện cưới xin vui vẻ.

* Lưu Thiên mã chỉ sự di chuyển, hoạt động lưu Thiên mã rơi vào cung nào thì cung đó có biến đổi hoặc có sự di chuyển (nếu không có những sao cản trở) khi Nguyệt hạn đến đó. Ví dụ: Nếu Thiên mã gặp Triệt, Thiên hình, Đại - tiểu vận xấu thì dễ xảy ra tai nạn, chia ly có liên quan đến cung có lưu Thiên mã rơi vào. Nếu Đại - tiểu vận tốt, Thiên mã không gặp Tuần - Triệt thì có chuyện di chuyển, du lịch vui vẻ, gặp cả Lộc tồn, hoặc Hoá lộc không có Đà la, Khoa hoặc Khôi - Việt thì mua sắm phương tiện giao thông.

*Lưu Lộc tồn, Kình dương, Đà la:

Các sao Lưu này rơi vào cung nào thì cung đó cũng có những sự thay đổi nhất định. Vận tốt thì gặp việc tốt, vận xấu thì gặp việc xấu.

Ví dụ:

  • Lưu Lộc tồn rơi vào cung Huynh đệ, vận tốt có thêm anh em, vận xấu anh em gặp chuyện chia cách.
  • Lưu Kình dương, Đà la nhập cung nào thì cung đó dễ xảy ra tai nạn.

Nhưng thông thưởng Lưu Lộc tồn rơi vào cung nào thì gặp chuyện tốt ở cung đó nhất là những việc có liên quan đến tiền bạc vật chất, chỉ có Kinh - Đà mới hay gặp chuyện tai nạn, không vui.

Nguyệt vận (vận tháng):

Xác định Tiểu vận ở cung nào, từ cung đó tính là tháng 1 (tháng giêng) đếm nghịch đến tháng sinh, dừng ở cung nào thì từ cung đó tính là giờ Tí đếm thuận đến giờ sinh, dừng ở đâu thì tính cung đó là tháng đầu tiên của tiểu vận.

Ví dụ: Nam sinh 1/2/Tân dậu - giờ Tuất:

Tiểu vận 24 tuổi dùng ở cung Ngọ - từ cung Ngọ tính là Ti đếm nghịch đến tháng sinh (tháng 2) dừng ở cung Tỵ, từ cung Tỵ tính là Ti đếm thuận đến giờ sinh (giờ Tuất) dừng ở cung Mão - Cung Mão được tính là tháng đầu tiên của tiểu vận 24. Cung Thìn là tháng 2, Ty tháng 3, Ngọ tháng 4...cứ như vậy cho đến tháng 12 dừng ở cung Dần.

Vấn đề năm nhuận một tháng hiện tại tôi chưa tìm ra phương hợp lý nên vẫn tính theo sách cổ cả 2 tháng là một. Ví dụ năm nhuận 2 tháng 4 mà tháng 4 dừng ở cung Mão thì vẫn sử dụng các sao tại cung Mão để kết hợp luận việc của cả 2 tháng 4 nhưng có sự cân nhắc tăng giảm tính chất của các sao tuỳ thuộc vào từng lá số.

Khi xét Nguyệt vận cũng cần phải tổng hợp các sao luân chuyển trong Tiểu vận. Sau khi nhìn nhận tổng hợp Đại - Tiểu vận, những sao Lưu hàng năm để biết những sự kiện chính xảy ra trong năm đó thì sẽ xem xét kết hợp từng cung của Nguyệt vận để biết chính xác sự việc xảy ra năm nào. Ví dụ : Tiểu vận gặp Địa kiếp thì đến cung Nguyệt vận nào có Thiên hình, trong tháng đó sẽ bị hao tán nhiều tiền.

Nhật hạn (hạn ngày):

Xác định cung Nguyệt hạn, tại cung Nguyệt hạn tính là ngày đầu tiên của tháng. Nếu:

- Cung nguyệt hạn là Dương cung (tí, dần, thìn, ngọ, thân, tuất) thì tính theo chiều thuận đến các cung tiếp theo là 2, 3, 4, 5....

- Cung nguyệt hạn là Âm cung (sửu, mão, ty, mùi, dậu, hợi) thì tính theo chiều nghịch đến các cung tiếp theo là 2, 3, 4, 5....

ví dụ:

  • Nguyệt hạn ở cung Thìn - ngày 1 tính ở cung Thìn, ngày 2 ở cung Ty, 3 ở Ngọ...
  • Nguyệt hạn ở cung Mão - Ngày 1 tỉnh ở cung Mão, ngày 2 ở cung Dần, ngày 3 ở Siêu...

Trong dân gian mọi người thường nói:

Mồng 5, 14, 23 đi chơi cũng thiệt nữa là đi buôn

Hoặc

Nhằm sao Thái bạch ra chỉ

Tháng 5 trùng kỵ gắng ghi đề phòng

Tổng hợp các phép tính từ Đại vận, Tiểu vận, Nguyệt vận, Nhật vận ta sẽ thấy sự đúc kết kinh nghiệm của người xưa không phải khi nào cũng đúng. Đó chỉ là cách nói chung chung nhằm cảnh tỉnh mọi người, còn không phải ai đi buôn nhằm ngày 5, 14, 23, gặp hạn Thái Bạch hoặc đến năm tuổi là xấu mà tuỳ theo vận trình của từng người khác nhau thậm chí còn phát tài lớn.

Thời vận (hạn giờ):

Tính tương tự giống cách tính của Nguyệt hạn. Bắt đầu cung Nhật hạn tính là giờ Tí.....

Trên lá số Tivi mỗi cung đại diện cho 2 tiếng thời gian theo đồng hồ thông thường tương ứng với 12 địa chỉ.

Hiện nay, ít người có khả năng luận Tivi chính xác đến Thời hạn mà chủ yếu chỉ dừng ở mức Nguyệt hạn. Nếu tính chính xác được đến thời hạn cần phải có sự hỗ trợ của những phương pháp khác.

Một số kinh nghiệm luận đoán trên lá số Tử Vi:

- Trước tiên quan sát toàn diện lá số xem Mệnh - Tài - Quan - Di đóng ở đâu, chính tỉnh nào toạ thủ có tạo thành cách cục rõ ràng Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham, hay Âm - Dương, Cơ Nguyệt Đồng Lương., có bị Tuần - Triệt cản trở hay không.

- Sau khi xác định được vị trí của Mệnh và trạng thái của các chính tỉnh, xác định tiếp vị trí của các trung tỉnh quan trọng như : Địa không, Địa kiếp, Thiên không, Khoa - Quyền - Lộc, Hoa kỵ. Thái tuế, Lộc tồn, Kinh dương, Đà la, Thiên hình, Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc, Hoả tỉnh, Linh tỉnh, Thiên khốc, Thiên hư, Tang Môn, Thiên mã, Thanh long, Hoa cái, Long trì, Phượng các.

- Quan sát tổng thể cung Nô bộc, Phụ mẫu, Phúc đức, Huynh đệ, Phu thê kết hợp với Mệnh để xác định tầng lớp của lá số thuộc: trung lưu, thượng lưu, kinh doanh, quan chức hay nghèo hèn, yếu chiết để từ đó mới tiếp tục luận vận được.

- Quan sát các cách cục lớn sau đó đi vào luận chi tiết. Ví dụ thấy vận gặp Địa kiếp, Thiên hình trước tiên xác định là có chuyện mờ ám liên quan đến tiền bạc; tiếp tục đi sâu vào chi tiết nếu thấy có Hoa khoa, Hoa quyền thì luận là bản thân đi lừa tiền của người khác, nếu thêm hung tinh như Kinh dương, Đà la không có Hoá khoa thì mình bị người khác lừa tiền, hoặc vay không trả...

Một vài ví dụ về cách cục trên lá số:

- Cung Điền trạch đóng ở Dần - Thân - Tỵ - Hợi nếu có sao Tuyệt rơi vào thì không mua được nhà mặt phố. Nhà cửa có thể to nhỏ thay đổi theo từng vận nhưng luôn ở phía trong so với đường lớn.

- Linh tỉnh, Hoả tỉnh đóng cung Điền trạch là ông cha đời trước đã phạm vào đất hoặc đồ đạc của đình chùa nếu không trồng cây cho nhà chùa thì nhà cửa dễ bị chảy.

- Cung Điền có Thiên hình đóng tất sẽ bị ăn trộm hoặc bị pháp luật khám nhà.

- Đào hoa, Thiên riêu đóng cung Tật là người hay ngủ với ma (mộng tinh)

-Văn xương, Thiên riêu là người ham chơi truỵ lạc nếu hạn gặp thêm Đào hoa thì dễ ngoại tình.

-Vận gặp Địa không, Địa kiếp, Đà la, Hoa cải (Mệnh hãm) hay đi bỏ nhà đi chơi nếu thêm Thiên trù, Thiên khốc, Thiên hư, Thiên mã thì phải lang thang xin ăn.

Vận gặp Địa kiếp, Phục binh, Thiên hình, Thái tuế (Mệnh hãm) dễ phải vào tù nếu kèm theo Hoá lộc (đi tù vì tiền), Hoá quyền (đi tù vì quyền) nhưng nếu Mệnh tốt lại gặp Quyền - Lộc thì phú quý nhanh chóng nhưng do sự phi pháp. Hạn này chỉ có Hoá khoa, kèm theo Ân quang (Thiên quý) mới giải nổi.

Phục binh, Thái tuế, Thiên hình

Trai thì tù ngục, gái thì hiệp thương (đánh nhau)

- Đại - Tiểu vận có Thiên mã, Đà la kèm theo Hoa khoa, Tấu thư dễ xuất ngoại du học (nếu đi cùng Địa không, Địa kiếp thì cũng xuất ngoại

nhưng đi lao động kiếm tiền, thêm Thiên hình, Kiếp sát thì không xuất ngoại

mà bị tai nạn) với điều kiện Thiên mã không gặp Tuần – Triệt hoặc Lộc tồn. - Đại - Tiểu vận có Thanh long gặp Hồng loan, Đà la thì mọi việc phải làm đi làm lại nhiều lần.

- Vận gặp Thiên hình, Thái tuế, Đào hoa mà cung Phu thê xấu thì dễ ly hôn.

- Nữ mệnh có Kình dương, cung Phu có Đà la, hạn gặp Thiên hình, Thái tuế hoặc Tang Mã Khốc Hư thì dễ ly hôn, khắc chồng.

- Mệnh xấu có Liêm - Tham Địa kiếp, Đà la, Thiên hình, Cô - Quả dễ chết trong tù.

Địa kiếp, Lưu hà đóng cung Thiên di thì phải chết xa nhà.

- Thiên hình đóng Mệnh hạn đến cung Phụ mẫu hoặc Huynh đệ là người có duyên nợ với cha mẹ từ kiếp trước, ở nhà thì phá gia chi tử nhưng bỏ nhà ra đi thì cha mẹ cũng không làm ăn gì được.

- Hạn gặp Thiên hình, Kiếp sát, Địa không, Địa kiếp, cung Tật bị phát động thì bị bệnh phải lên bàn mổ nếu có cát tinh như Thiên đồng, Thiên lương, Hoá khoa, Thiên riêu thì không chết nhưng nếu gặp Tang Mã Khốc Hư thì sẽ chết.

- Thanh long, Hoa cái đóng Mệnh là người thích tìm hiểu về tâm linh, hạn gặp Thiên quan, Thiên phúc, Thiên riêu, Hoa cái là có cầu cúng thay cung đổi mệnh.

- Đại -Tiểu hao đóng cung Điền trạch, khi vận nhập cung Điền gặp Không Kiếp, Hoả tỉnh, hoặc Thiên hình,Thái tuế là dễ xảy ra chuyện hao tán nhà cửa do bị cưỡng đoạt, hoả hoạn hay kiện tụng.

- Vận gặp Địa kiếp nếu không có cát tinh thì sẽ xin việc đi làm nhưng sẽ vất vả mà tiền không nhiều (vì thiếu tiền nên phải đi xin việc để làm); vận Hoá lộc cũng là xin được việc nhưng công việc nhẹ nhàng, có xu hướng về kinh doanh và có nhiều tiền hơn.

*Đối với trường hợp lá số của những người sinh đôi thì nên dùng phương pháp dịch chuyển giờ sinh để kiểm tra rồi luận đoán: một lá số giữ nguyên giờ sinh, một lá số có thể lùi lại hoặc tiến thêm một giờ nhưng phải đảm bảo cả hai lá số đó có chung thời vận, tức là Cục của hai lá số trùng nhau. Ví dụ lá số giữ nguyên giờ sinh có Cục số là Hoa lục cục thì lá số kia cũng phải là Hoa lục cục.

Trường hợp sinh đôi nam: 10/9/năm Kỷ Dậu - giờ Mùi.

- Một lá số giữ nguyên giờ sinh : 10/9/ năm Kỷ Dậu - giờ Mùi - Hoà cục

- Một lá số dịch giờ sinh tiến thêm 1 giờ: 10/9/ năm Kỷ Dậu - giờ Thân - Hoả cục.

để đảm bảo cả 2 lá số đều có chung Hoà Cục khi xác định thời vận.

Ví dụ Luận đoán lá số Tử vi:

Ví dụ 1: Nam ngày 8/ tháng 9/năm Bính thìn - giờ Tí.

Mệnh lập tại cung Tuất, Thiên Đồng hãm địa nhưng vẫn có dáng vẻ đầy đặn, chắc chắn. Mệnh - Tài - Quan tạo thành cách Cơ - Nguyệt - Đồng - Lương, nhưng hãm địa lại ở thế Thiên La - Địa võng nên cuộc đời tất phải thay đổi, vất vả. Thân - Mệnh đồng cung nên sẽ phải tự thân lập thân. Mệnh lại hội đủ Tang - Mã - Khốc - Hư nên là người hình khắc người thân, cung Thiên di bị Triệt, cung Phúc đức bị Tuần, cung Thê có Song Hao, Thiên Mã (dấu hiệu của việc lấy vợ xa) nên bước đầu có thể khẳng định người này phải lấy vợ lập nghiệp ở xa quê hương. Mệnh giáp Đào hoa, Hồng loan dễ lôi cuốn người khác phái. Nhưng bù lại Mệnh giáp Thiên khôi, Thiên việt, kết hợp với Tài - Quan hội tụ Khoa - Quyền - Lộc, Phong cáo - Thai phụ, Thiên quý nên cũng thường gặp quý nhân trợ giúp làm việc gì cũng được thu được kết quả tốt mặc dù không lớn. Tóm lại đây là mệnh có cách cục trung bình thuộc tầng lớp trung lưu, cung Quan của người này có thêm Khôi Việt hội tụ thì có thể làm quan chức trong ngành thương mại.

Xét về dáng vẻ, tính cách, người này có dáng người tầm thước, đầy đặn, hiền lành, da dẻ hông hảo (Thiên Đồng, Hoả tỉnh, Linh tỉnh) đứng đắn, tốt bụng (Thiên quý, Hữu bật), thích cờ bạc (Văn Xương, Thiên tài), hay khoe khoang (Lâm quan), nét mặt không được tươi, hay buồn (Tang, mã, khốc, Hư, Hoa tinh, Linh tinh), nhưng cũng thông minh, sáng dạ (Văn xương, Khoa, Quyền, Lộc) nên triết giảm được bớt tính xấu được mọi người yêu mến, giúp đỡ. Cung Thiên di có Cự môn, Thái tuế nên là người lợi khẩu hay nói to, nói nhiều. Về bản chất (cung Tật ách) là người hiếu sắc, thiện tính, vui vẻ (Thiên tướng, Thiên quan, Thiên hỷ), cô độc, nóng nảy, hay tiểu tiết, tính toán (Cô thần, Thiên không,Thiên hình, Kiếp sát), trong người có bệnh kín, nhưng cung Tật ách, Thiên di bị Triệt nên các tính chất này bị triết giảm không thể hiện rõ ràng chỉ khi nào gặp hoàn cảnh thật sự cấp thiết mới nhìn nhận được những tính chất này.

Hình 248

Phụ mẫu ở cung Hợi có Vũ khúc, Phá Quân, Phục binh, Không - Kiếp miếu địa hội tụ nên dễ là quân nhân, lại thêm Lưu hà, Phi liêm, Thanh Long thể hiện là người hay phải di chuyển đi lại nên suy luận cha của người này làm lái xe trong quân đội. Cung Phụ mẫu tuy xấu (Không - Kiếp, Hoá Kỵ, Phục binh) nhưng lại có Hồng Loan, Trường sinh nên cha mẹ không đến nỗi bỏ nhau và vẫn thọ. Cung Phụ mẫu lại ở trong thế Long đức - Trực phù - Thiếu âm nên người này khắc khẩu không hòa hợp với cha mẹ. Khi vận nhập vào mệnh (3 -12) gặp những sao tốt kết hợp với cung Phụ mẫu, thì cha mẹ cũng là người khá giả, lúc còn nhỏ so với bạn bè người này cũng có cuộc sống tốt hơn. Nhưng vì gặp Không - Kiếp, chính tinh hãm địa nên cảng về sau này cha mẹ càng kém giảm nhất là về mặt kinh tế.

Quan lộc đóng ở cung Dần có Thiên cơ, Thái âm, kết hợp với cung Mệnh cung Tài tạo thành cách Cơ Nguyệt Đồng Lương lại hội đủ Khoa - Quyền - Lộc, Hữu bật, Phượng các, cho thấy người này làm việc gì cũng thuận và có người giúp đỡ nhất là sau khi lập gia đình (Đầu quân, Long trì đóng cung Thê chiếu về) kèm theo Hoá lộc, Đường phù, Kình dương, Thu thư nên công việc thường liên quan đến tài chính, kinh doanh. Có đủ Mã - Khốc - Khách, Song hao, nên công việc thường hay phải di chuyển. Xét tổng hợp Mệnh - Tài - Quan, người này thích hợp với những công việc mang tính chất dịch vụ, kinh doanh có sự lưu động di chuyển và sẽ thu được thành công nhất định, thành công không phải lớn vì Mệnh Thiên Đồng hãm địa lại nằm ở thế Thiên La - Địa võng, Thiên Cơ - Thái âm ở cung Quan cũng hãm nên hội tụ được nhiều trung tinh tốt nhưng người này vẫn không thể làm lớn được. Những tính chất thể hiện trên cung Quan chỉ là những dấu hiệu mang tính ước định sẵn là như vậy nhưng không phải cứ nhất thiết là quy định công việc suốt đời, tùy theo từng vận trình mà kết hợp các sao của cung Quan với cung vận để luận đoán. Nhưng vì cung Quan của người này hội đủ cách cục khá rõ ràng nên cho dù có thay đổi công việc đi chăng nữa thì hình thức công việc vẫn có tính chất dịch vụ, di chuyển, có liên quan đến kinh doanh, tài chính. Và chỉ khi vận đến cung Quan (43-52) thì người này mới thực sự thu được thành công, có thể làm ông chủ kinh doanh cỡ trung bình vì lúc này hội đủ cách cục và tính chất của các sao thể hiện rõ ràng nhất. Trong vận từ 23 - 32, mặc dù có 2 lần thay đổi vị trí (Tả phù) những công việc vẫn là nhân viên phòng Kinh doanh, thường xuyên phải di chuyển.

Cung Tài bạch của người này có Thiên Lương miếu địa, Kình dương hội với Mệnh - Quan có nhiều cát tinh nên giỏi kiếm tiền, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh và có khả năng tiết kiệm, cất giữ tiền bạc ít người biết (có sao Tử ). Càng về hậu vận càng giàu, nhất là trong Đại vận cung Quan.

Cung Thê, vô chính diệu, gặp Long trì, LNVT nên vợ cũng là người phong lưu, lương thiện. Nhưng cung Quan lộc có Thiên mã chiếu về cho thấy người này sẽ phải lấy vợ xa quê, vợ chồng gặp nhau khi phải xa quê lập nghiệp. Mệnh khắc hại người thân (hội đủ Tang - Mã - Khốc - Hư). Cung Thê gặp Thiên khốc, Song hao, Tuyệt, Đầu quân là cuộc sống vợ chồng không được đằm thắm, bền vững, lại thêm Hữu bật ở cung Quan chiếu về bên người này sẽ có 2 vợ.

Dự đoán một số việc quan trọng xảy ra trong năm Giáp Thân - 2004.

Trong vận 23-32 gặp Tả phù, cung Quan có Hữu bật nên thường được mọi người trợ giúp trong công việc. Năm 29 tuổi tiểu vận đến cung Quan gặp; Niên vận Giáp Thân, Lưu Thái tuế nhập cung Phu thê, Song hao, Đầu quân, Tuyệt được phát động mạnh, Lưu Tang Mã Khốc Hư chạm vào Mệnh - Tài - Quan như vậy là gặp 2 lần Tang Mã Khốc Hư nên nhất định trong năm Giáp Thân sẽ gặp nhiều sự lo lắng có thể bị mất việc nhưng vì gốc đại vận gặp Tả phù, Tiểu vận ở cung Quan có nhiều trung tinh tốt nên không đến nỗi thất nghiệp mà có sự thay đổi vị trí làm việc sang công ty khác.

Đại vận có Hỷ thần, Mộc dục, Lưu niên đại vận 29 tuổi đến cung Huynh đệ gặp Đào hoa, Thiên riêu, Thai, Nguyệt đức, Phục binh nên trong năm 29 tuổi trong gia đình sẽ có tin vui cưới hỏi của anh em. Lưu thái tuế nhập vào cung Thê nhưng lại gặp những sao không có lợi cho hôn nhân như : Đẩu quân, Tuyệt, Song hao, Mệnh lại gặp cả 2 bộ Tang Mã Khốc Hư nên mặc dù cung Thể phát động nhưng cũng chưa diễn ra việc kết hôn. Phải đợi đến năm 30 tuổi, Tiểu vận gặp Đào hoa, Riêu, Thai, Hồng loan, Phục binh, Khôi - Việt, Không - Kiếp miếu địa (phát tài nhanh chóng nhưng hao tán cũng nhanh); Lưu niên đại vận đến cung Mệnh gặp Khoa - Quyền - Lộc, cát tỉnh hội hợp lấn át hung tinh thì mới có hỷ tín. Nhưng cuộc hôn nhân này sẽ gặp những chuyện gièm pha của mọi người vì gặp Hoá kỵ ở cung Tử chiếu về Tiểu vận. Nguyên nhân có thể bắt nguồn từ nguyên tắc đạo đức vì năm Ất Dậu - 2005, lưu Thái tuế rơi vào cung Huynh đệ những sao dâm tinh bị phát động, đặc biệt là Thiên riêu, Đào hoa, Thai; Lưu tang mã khốc hư xâm phạm cung Tử, cung Phụ mẫu nên có chuyện chăn gối trước hôn nhân dẫn đến việc cha mẹ phải lo lắng việc cưới xin bất ngờ và mọi người nói ra nói vào. Và vào năm Ất Dậu lưu Thái tuế rơi vào cung Huynh đệ lại có nhiều sao thai sản thì trong Huynh đệ sẽ có tin vui về đường tử tức.

Ví dụ 2: Nữ mệnh - 8/10/ Ât mão - giờ Mùi.

Mệnh lập tại cung Thìn, Cự môn hãm địa, gặp nhiều hung tỉnh Địa không, Hoả tỉnh, Thiên không, Đà la, Kiếp sát, Lưu hà lại ở thế Thiên là - Địa võng nên cuộc đời nhất định sẽ vất vả, không thọ.

Hình 252

Xét về hình dáng, tính cách, đặc điểm nổi bật của người này là môi miệng xấu, không tươi (Cự môn hãm lại gặp nhiều hung tinh) nhưng vẫn có dáng người đầy đặn. Vẻ bề ngoài đây là người đa nghi, hơi nóng tính (Cự môn, Địa không, Thiên không, Kiếp sát) nhưng có khả năng ăn nói thuyết phục người khác (Cự môn, Lưu hà, Tấu thư, Hỷ thần, Thiên việt, Lâm quan); Tam hợp Mệnh - Tải - Quan - Di lại có thêm Tứ đức (Thiên - Nguyệt đức, Long đức, Phúc đức) nên không phải là kẻ đi dùng tài ăn nói để lửa người mà ngược lại hay làm việc thiện, giúp đỡ người khác. Mặc dù nóng tính, nhưng trong quan hệ với mọi người thường có thái độ vui vẻ, nhường nhịn (Cung Thiên di ở trong thế Long đức - Trực phù - Thiếu âm, Thiên hỷ, Hỷ thần; nhưng cũng hay bị tiểu nhân gièm pha đố kỵ và lừa tiền (Hoá kỵ, Địa kiếp, Thiên hình). Bản chất thật thể hiện trong cung Tật ách của người nảy rất thông minh, lãng mạn, đa cảm, đoảng hoảng, chính trực, hay suy tư (Hoa khoa, Xương - Khúc, Tang môn - Bạch hổ, Quốc ấn, Thiên quý); hơi liều lĩnh, bảo thủ, độc đoán, cô độc (Vũ khúc, Phá quân, Lộc tồn, Cô thần, Phá toái, Thái tuế); trực giác tốt, thanh cao đài các (Thanh long, Hoa cái, Long trì, Phượng các). Nhưng trong người có bệnh kín liên quan đến hệ thống hô hấp (Bệnh, Bệnh phù, Tang Môn - Bạch hổ, Linh tỉnh, Thiên tài).

Xét tổng quan cuộc sống, Mệnh hãm địa, gặp nhiều hung tinh nên nhất định phải vất và nhất là khi còn nhỏ vận nhập vào Mệnh, Cung Phụ mẫu gặp Cô thần - Qua tú, Mệnh gặp Thiên quan, Dưỡng nên lúc nhỏ phải sống xa cha mẹ và được người khác nuôi dưỡng. Nhưng cung Quan khá tốt có nhiều sao văn tinh quan trọng (Tấu thư, Thiên Việt, Đường phủ, Quan phủ) nên qua khỏi đại vận ở Mệnh (4-13) đến vận cung Phụ mẫu (14 -23) thì được quý nhân trợ giúp (Ân quang, Thiên quý) gặp thêm Văn khúc, Quốc ấn nên có điều kiện học cao, học nhiều. Sang đến vận ở cung Phúc đức (24-33) gặp Tuần phá Triệt ở cung Tài nên thêm Thiên khôi, Thiên Đức, Phúc đức, Đào hoa, Hồng loan hội về Mệnh, Quan. Cung vận lại có thêm Lưu niên văn tinh nên khả năng học của người này càng cao. Điều đặc biệt nhất ở lá số này là sự nghiệp học vẫn kéo dài liên tiếp qua nhiều đại vận. Thân cư Phúc đức có nhiều sát tinh nên mặc dù Thiên Lương miếu địa nhưng chỉ có danh mà không có thực, đến đời của người này thì dòng họ đã suy nhiều, mồ mả bị thất tản, họ hàng thường phải xa quê lập nghiệp, không được nhờ phúc ấm của dòng họ (Triệt, Địa kiếp, Thiên hình, Song hao).

Cung quan của người này đẹp, nhiều văn tinh; cung Thiên di lại có Thiên Đồng, Lưu hà, Thiên riêu - Thiên y, Hỷ thần, Thiên hỷ nên có xu hưởng làm những công việc mang tính chất dịch vụ, ngôn ngữ.

Cung Tài có Thái dương hãm địa lại gặp Đảo hoa, Hồng loan, Thiên đức, Phúc đức nên hay phải giao dịch với người khác phái. Mặc dù người này cũng thường tiết kiệm và có những khoản tiền bí mật nhưng vì gặp Đại hao nên nhiều việc muốn tiết kiệm cũng không được đành phải chỉ. Cung Tài này không giấu nổi.

Cung Phu lập tại Dần, Thái âm - Thiên cơ hãm, Hoá kỵ, Tuyệt lại trong thế Long đức - Trực phù - Thiếu âm hội, Địa kiếp, Thiên hình; Trên lá số cung Mệnh xấu, những sao chính chỉ sự duyên dáng đẹp đẽ là Đào hoa, Hồng loan lại bị Tuần nên điều đầu tiên dễ khẳng định là người này sẽ khó kết hôn, lận đạn về đường tình duyên.

Luận đại vận 24 - 33:

Vào đại vận này gặp Thiên Lương miếu địa, Hoá quyền, Hoá lộc, Triệt phá Tuần ở Ti - Sửu hội Thiên khôi, Lưu niên văn tinh Mệnh - Tài - Quan đã có săn nhiều văn tinh nên khá thành công trên đường học vấn, có địa vị, thêm Lưu hà, Quan Phủ, Trực phù nên có xu hướng làm tư vấn trong lĩnh vực pháp luật. Vận này gặp cả Đào hoa, Hồng loan, Thiên hỷ, Hỷ thần, Mộc dục, Thiên riêu nên dễ có quan hệ tình cảm nam nữ nhưng vì cung Phu thể có Hoá kỵ, Tuyệt toạ thủ lại gặp Địa kiếp, Thiên hình lại trong thế Long đức - Trực phù - Thiếu âm nên vẫn không kết hôn được; lý do là sự giảm pha, ngăn cản (Địa kiếp, Hoá kỵ), sự lựa chọn kỹ lưỡng, không phù hợp "cao không tới, thấp không thông" (Thiên hình, Long đức - Trực phù - Thiếu âm). Chuyện tình cảm xảy ra vào những năm 25, 26, 27, 28 tuổi. Mệnh này phải đợi đến Đại vận 34 - 43 mới có cơ hội lập gia đình.

Về sự nghiệp, hạn gặp Khoa - Quyền - Lộc, hội tụ nhiều văn tinh, năm Giáp Thân, Lưu Thái tuế nhập cung quan Lộc nên có sự chuyển biến rất tốt, năm này là năm thành đạt nhất trong về sự nghiệp trong đại vận 24 - 33. Nhưng Lưu Tang môn, Bạch hổ, Thiên mã, Khốc - Hư nhập cung Thiên di - Mệnh nên cũng phải lo lắng, di chuyển nhiều và có khả năng xuất ngoại du học. Lưu lộc tồn chạm cung Phu nhưng cũng có Hoá kỵ, Tang Mã Khốc Hư nên mặc dù rất lo lắng về chuyện lập gia đình nhưng vẫn khó thành.

Vận này tuy gặp chính tỉnh miếu địa, hội nhiều cát tỉnh nhưng vì gặp Địa kiếp, Thiên hình nên về mặt tài chính vẫn không tích tụ được, chỉ có danh mà không có thực. Mệnh hãm địa gặp Thiên không, Địa không, đại vận lại gặp Địa Kiếp, Thiên hình, rất nguy hiểm đến tính mạng nhất là vào năm 33 tuổi khi Đại - Tiểu vận trùng phùng.

Ví dụ 3: Nữ mệnh - 11/3/Canh thân- giờ Dần.

Mệnh lập tại Dần, Thất sát miếu địa, mặt vuông vắn, mắt sáng nhưng cằm hơi nhọn, cách Sát Phá Tham - Tử vi, Thiên phủ triều viên, hội Tang Mã Khốc Hư nên là người đoan chính, có nghị lực, ý chí nhưng thường khắc thân nhân, vất vả, có bệnh kinh niên (Bệnh). Tuy nhiên chính tỉnh miếu địa kèm theo văn tinh, đài các tính như Phượng các, Thiên việt, lộc tồn, Văn xương, Thai phụ, Hữu bật mặc dù vất vả cũng luôn giữ được tư cách thư thái, phong lưu. Thân cư Quan lộc gặp nhiều văn tinh nên không phải làm công việc nặng nhọc. Cung Thiên di có Thái tuế, Đấu quân, Lộc tồn hội Quyền, Án, Phong cáo - Thai phụ, Hữu bật, Hoa cái nên trong giao tiếp xã hội luôn tạo được uy tín và được nhiều người khác phái trợ giúp (Hữu bật). Cung Tật của người này có Đào hoa, Hoa kỵ, Kình dương, hội Thiên riêu, Lưu hà có dâm tính nhưng lại hay bị mắc bệnh máu huyết sẽ khó mà sinh được con trai (Hoá kỵ đóng cung Tật rất khó sinh con trai), nóng tính, ác ngầm, hay nghi kỵ (Địa không, Địa kiếp, Thiên không, Lưu hà, Kiếp sát, Hoá kỵ) Nhưng có Thái Âm miếu địa thêm Hoá khoa, Ân quang, Thiên quý, hội Tử đức (Thiên đức, Nguyệt đức, Long đức, Phúc đức), Thiếu dương nên chế giảm được bớt tính xấu bản chất vẫn là người hiền lành, đoan chính mặc dù vẫn nóng tính, hay nghi kỵ nhưng chỉ là ngấm ngầm và có khả năng kiềm chế tốt. Có năng khiếu cảm nhận về con người - tướng mạo (Thiên không, Hoá khoa, Thiếu dương, Ân quang, Thiên quý).

Hình 256

Thân cư Quan lộc là người coi trọng công danh sự nghiệp để lập thân, có Tả phù, Thiên khôi, Văn khúc nên thường làm công việc giấy tờ không phải lao động chân tay, có Thanh long, Thiên phúc nên sẽ tìm hiểu về lĩnh vực văn hoá tâm linh. Thiên khôi bị Triệt nên khó chấp chưởng làm lãnh đạo được.

Cung Tử tức hội Cự Môn, Đại - Tiểu hao, Thiên hình, Kiếp sát, Tuyệt, Lưu hả, Cô thần lại ở trong thế Long đức - Trực phù - Thiếu âm nên rất khó có con, sinh con sẽ bị chết hoặc xảy thai. Nhưng có Hoa khoa, Thiên y, Thiên riêu nên sau này sẽ nhờ thuốc chữa bệnh mà vẫn có con nhưng chỉ có được một là may mắn. Cung Tử có thêm Thiên quan, Ân quang, Phúc đức, Thiên đức, Tấu thư, Thiên riêu nên sẽ có con nuôi. Cung tử chỉ sự hiếm muộn nhưng có nhiều cát tinh hội tụ nên sau này con cái cũng là người có tài.

Cung mệnh gặp Tang mã khốc hư, khi người này nhập vận vào cung Mệnh (5 - 14) tất phải khắc thân nhân, nhưng có kèm theo nhiều đài cát tinh như : Thiên việt, Giải thần, Văn xương, Trường sinh, Lộc tồn, Hữu bật, Bác sỹ, Thiên giải, Thái tuế nên không đến nỗi phải phải âm - dương cách biệt, nhưng cung Huynh đệ hội tụ toàn hung tinh nên phải xa anh em (anh trai xuất ngoại, chị gái đi lấy chồng); cung Phụ mẫu may có Hoá khoa cứu giải nên không đến nỗi hình khắc.

Sang đại vận cung Huynh đệ (15 - 24) Tuần - Triệt xung phá nên có nhiều hung tinh xâm phạm (Không - Kiếp, Hoá kỵ, Kinh dương, Kiếp sát, Hoả tỉnh) nên gia đình sa sút, bản thân vất vả. Cha mẹ bị bệnh, anh em nghèo khó không giúp đỡ được cho nên mặc dù Mệnh - Tài - Quan hội tụ nhiều văn tinh, thông minh, hiểu biết, vận trình vào giai đoạn học hành nhưng không được học cao, gặp thêm cả Thiên hỷ, Hỷ thần, Đào hoa, Hoa kỵ, Hồng loan, Đà la vận này lẽ ra phải rơi vào phận kỹ nữ nhưng vì mệnh Thất sát miếu địa có cả cát tinh nên không đến nỗi tha phương: khi gặp khó khăn lại gặp quý nhân phù trợ ( Ân quang, Thiên quý, Địa Giải - khi còn đi học được người nuôi dưỡng, năm 2002 lưu Thái tuế phát động cung Quan nên được quý nhân xin việc nhanh chóng), có khả năng kiếm tiền sớm (Hoá lộc), hiền lành đoan chính không dám hành động thái quá, bất mãn. Và vận này gặp cả Đào, Hồng, song Hỷ là đã có thể thành lập gia đình nhưng vì vướng nhiều hung tinh cản trở nên việc không thành.

Sang vận cung Phu thê (25 - 34), Tuần ở Ti - Triệt ở Ngọ lại tiếp tục bị xung phá gặp nhiều cát tinh nên cuộc sống bớt vất vả, được đi học thêm cao hơn. Mệnh có Phượng các, cung Phu có Long trì nên nhập hạn cung Phu là gặp được chồng tương lai, vợ chồng xứng đôi vừa lứa và sau khi kết hôn cuộc sống của người này sẽ tốt hơn nhiều (vì Long - Phượng hợp đôi, cung Phu lại đẹp nên nhất định sẽ tốt) mặc dù vẫn hình khắc (Mệnh có Tang Mã Khốc Hư). Nhưng trong người đã có bệnh sẵn (Bệnh), cung Tật xấu (Hoa kỵ, Không - Kiếp, Lưu hà) đại vận lại gặp Bệnh phù, năm 26 tuổi Niên hạn đến cung Tật, thêm Lưu thái tuế, Khốc - Hư phát động nên không tránh khỏi việc bị mắc bệnh nặng dẫn đến mổ xẻ (Kinh dương, kiếp sát, Lưu hà, Hoa kỵ, Địa không, Thiên không) nhưng may gặp Hoá khoa, Thiếu dương, Thiên y, Thiên riêu, Ân quang, Thiên quý, Tứ đức cứu giải nên không nguy hiểm đến tính mạng. Lưu thái tuế phát động Đào hoa, Hoá kỵ; Lưu Tang môn - Bạch hổ xâm phạm cung Tử tức gặp Tuyệt, Thiên hình nên luận rằng năm 26 tuổi người này bị bệnh vì sảy thai có liên quan đến chuyện tình cảm nam nữ. Nhưng vẫn chưa đi đến hôn nhân được vì bị bệnh tật, gièm pha cản trở, khó khăn về kinh tế (nhất là khi Địa không, Thiên không, Hoá kỵ bị phát động mạnh).

Lưu niên đại vận 26 tuổi nhập cung Quan gặp Tả phù nên có đi làm thêm một lúc làm ở hai nơi, Đại vận tốt, Lưu niên đại vận tốt, nhưng Tiểu vận rất xấu nên những chuyện xảy ra trong năm 26 tuổi đều không thuận (mặc dù có đệ nhất giải thần Hóa Khoa ở cung Phụ mẫu nhưng cũng chỉ giữ cho mọi việc không quá xấu), cung Tật lại gặp Lưu Khốc - Hư nên không tránh khỏi việc phải buồn phiền lo lắng.

Nữ Mệnh Thất sát là cô tỉnh, lại thêm Khốc Hư Tang Mã nữ nên nhất định về giả sẽ cô độc. Cung tật thể hiện người này đam mê tôn giáo, có căn cơ tu hành (Thiên riêu, Đào hoa, Thiên không, Lâm quan, Tứ đức) và sẽ phải tiêu tốn rất nhiều tiền (Địa không). Lúc này Ân quang, Thiên quý, Thiên riêu, Thiên không là lễ bái, tu hành; Đào hoa là hoa quả; Lâm quan là chùa chiền; Tứ đức là việc làm phúc thiện. Đại vận đến cung Tài gặp Tang Mã Khốc Hư là nhiều chuyện buồn, cung Quan có sẵn Thiên phúc, Thanh long, đại vận gặp Hoa cái, Thiên giải nhất định có chuyện tu hành, nghiên cứu tâm linh; Sự kiện mang tính dấu ấn làm thay đổi cuộc sống của người này diễn ra vào năm 45 tuổi khi lưu Thái tuế nhập cung Phúc đức Hoa cái, Vũ khúc bị phát động; niên vận nhập mệnh gặp 2 lần Tang mã khốc hư. Nguyên nhân tạo ra sự thay đổi là bị mất con.

Đến năm 57 tuổi Niên vận nhập Mệnh gặp Tang Mã Khốc Hư, lưu tang mã khốc hư cũng nhập mệnh; Lưu niên đại vận ở cung Phúc đức lại gặp Tang môn - Bạch hổ, bị Lưu thái tuế phát động; Gốc đại vận rất xấu (Thiên không, Địa không - sát tỉnh càng lớn tuổi càng tác hại lớn, Đào hoa = cái hố, Kình dương = cuốc xẻng, Hoá kỵ = thuốc độc, Kiếp sát là mổ xẻ) e rằng không giữ được tuổi thọ.