Thiên Văn Học Phương Đông Cổ Và Tử Vi

  • Viết bởi: Ngọc Phương
    Ngọc Phương Tôi là Ngọc Phương, hiện đang đảm nhiệm vị trí Content Writer cho Vạn Sự Như Ý
  • 16 Lượt xem
  • Cập nhật lần cuối 05/03/2023
  • Reviewed By Lâm Huyền Cơ
    Lâm Huyền Cơ Lâm Huyền Cơ là người yêu thích tìm hiểu các kiến thức phong thủy cổ đại, bên cạnh đó còn nghiên cứu kinh dịch và phong thủy hiện đại.

Thiên Văn Học Phương Đông Cổ Và Tử Vi

Những quan điểm về nguồn gốc tử vi theo các nền văn hóa khác nhau như thế nào? Quan niệm của Phương Đông về Vũ Trụ và Bầu Trời? Thiên văn trong nền văn hóa Việt? Cùng tìm hiểu chi tiết trong bài viết dưới đây:

Những quan điểm về nguồn gốc Tử Vi :  

Về nguồn gốc khoa Tử Vi do tự liệu Lịch Sử để lại gần như không có,  chính vì thế việc khảo cứu nguồn gốc cũng như phương pháp luận của khoa  Tử Vi có rất nhiều khó khăn. Hiện nay có 3 tư tưởng chủ đạo về nguồn gốc  và Phương Pháp luận của Tử Vi như sau :  

+ Quan điểm thứ nhất : đời người là những sự kiện, các sự kiện giao thoa  nhau và tạo thành sự kiện mới. Trong Tử Vi mỗi sao tượng trưng cho một sự kiện, các sao kết hợp với nhau để nói lên cuộc đời của con người .  

+ Quan điểm thứ hai: khoa Tử Vi chỉ là một số sự kiện, nguyên lý của Khoa  Tử Vi là những Tiên Đề định sẵn không thể giải thích được. Các sao Tử Vi  chỉ giao thoa nhau trên tờ giấy .  

+ Quan điểm thứ ba: Tử Vi có nguổn gốc tứ Dịch Lý, Ngũ Hành, Âm  Dương .  

Cả ba quan điểm trên của giới nghiên cứu Tử Vi hiện nay, tác giả đều thấy  có sự thiếu chính xác và không đầy đủ. Bản thân tác giả trong cuốn sách nhỏ này xin trình bày quan điểm của riêng tác giả về nguốn gốc và phương pháp  luận của Tử Vi, đó là: Thiên Văn và Nhân Sinh Quan. 

Thiên Văn - Nguồn gốc của Tử Vi:  

 NHÂN SINH QUAN chính là Phương Pháp Luận trong Tử Vi, đã được  trình bày rõ ràng trong chương I và II . Chương này xin dành để nói về Thiên Văn - cội nguồn của nền Lý Học Đông Phương , mà trong đó có Tử Vi  

Thiên Văn trong nền Văn Hoá Việt:  

 Chúng ta đều biết, quá trình nhận thức của con người nói chung đều  bắt nguồn từ những quan sát các hiện tượng đời thường, ngày qua ngày mà  đúc kết nên những kinh nghiệm để phục vụ cuộc sống. Khi đã quan sát qua  thời gian dài, con người cố tìm hiểu để phát hiện ra quy luật của những hiện  tượng ấy, và cố gắng giải thích nó bằng những kiến thức tích luỹ hoặc sáng  tạo ra kiến thức mới để giải thích về những hiện tượng này. Và cứ như vậy  KHOA HỌC đã ra đời. Người Phương Đông cũng không nằm ngoài cái quy  luật này , mọi nhận thức của người Phương Đông đều xuất phát từ việc quan  sát những Hiện Tượng Thiên Nhiên hàng ngày diễn ra . Từ đó đúc kết ra nền  Lý Học Đông Phương đồ sộ. Và chúng ta cũng thấy sẽ không phải là sai  lầm nếu cho rằng THIÊN VĂN là nguồn gốc của nền Lý Học Đông Phương.  

Dĩ nhiên Thiên Văn nó chỉ là mặt Tự NHIÊN, ngoài ra còn phải có mặt Xã  HộI nữa mà tiêu biểu là NHÂN SINH QUAN thì nền Lý Học Đông Phương  mới có thể hình thành và phát triển.  

 Nền Văn Minh của dân tộc Việt vốn là nền Văn Minh lúa nước. Chính  vì thế những yếu tố về khí hậu thời tiết là vô cùng quan trọng. Trong dân  gian câu nói “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống“ cũng nói lên sự quan  trọng của khí hậu đứng hàng thứ nhất. Như vậy việc trồng trọt việc quan  trọng đầu tiên là phải được tiến hành đúng lúc, đúng thời vụ. Nhưng làm sao  để có thể làm được như vậy ? Con đường duy nhất là quan sát những chu kỳ nóng lạnh nắng mưa qua sự vận động của Mặt Trời Mặt Trăng cùng các  Tinh Tú trên trời qua nhiều năm mà đúc rút ra quy luật. Chính những quan  sát này đã khiển con nguời nhận ra rằng, mỗi khi Mặt Trời, Mặt Trăng hay các Tinh Tú quan sát thấy trên bàu trời có gì biến đổi lạ thì sẽ xảy ra những  hiện tượng khí hậu thời tiết và con người (ví dụ như mưa nắng, bện dịch,  thiên tai…). Và từ đó họ đi đến kết luận : “Con người liên quan mật thiết  đến vũ trụ. Sự vận động của các Tinh Tú trên bầu trời ảnh hưởng mạnh  mẽ và quyết định đến số phận cũng như đời sống hàng ngày của mỗi cá  thể “.  

 Những quan sát Thiên Văn qua bao đời để phục vụ cho Trồng Trọt đã  cho ra đời LịCH, một bảng tóm lược quy luật của thiên nhiên về thời tiết, nó  là kim chỉ nam cho nhà nông biết về thời vụ để gieo cấy trồng trọt. Và hơn  thế LỊCH là thông số đầu vào cho mọi môn Khoa Học của Lý Số Đông  Phương. Và dựa trên kết luận về con người và vũ trụ nêu ra ở trên, những  môn học thuật như Thái ất, Độn Giáp, Lục Nhâm, Tử Vi,… đã ra đời . Nó  thể hiện cái khát vọng chinh phục thiên nhiên, tiên tri về vận mệnh của chế độ, của quốc gia hay cho từng cá nhân. 

Quan niệm của Phương Đông về Vũ Trụ và Bầu Trời:  

 Quan sát Thiên Văn qua bao đời, người xưa đã nhận thấy : trên bầu  trời hàng ngày có 7 vì sao sáng nhất đó là Nhật Nguyệt, Kim, Mộc, Thuỷ,  Hoả, Thổ ; họ gọi 7 sao này là Thất Đại Diệu. Và đặc biệt họ còn nhận thấy,  có một ngôi sao luôn luôn đứng yên trên bầu trời, toàn bộ các ngôi sao khác  phải chuyển động quanh nó, đó chính là sao Bắc Thần (hay Bắc Đẩu) .  Chính vì sự đặc biệt này mà người xưa cho rằng, sao Bắc Thần là vị sao  chúa tể của cả bầu trời, là nơi ngự của Ngọc Hoàng Thượng Đế. Trong  Thiên Văn Hiện Đại sao Bắc Thần chính là sao ALPHA trong chòm Tiểu  Hùng (Ursa minor). 

Sự phân chia bầu trời:  

Nhị Thập Bát Tú  

Sau khi xác định được sao Bắc Thần. Người Phương Đông xưa đã  xem nó là Trung Tâm bầu trời, lấy nó làm tâm tính ra mà phân thành Tam  Viên :  

Tử Vi Viên, Thái Vi Viên và Thiên Thị Viên. Khu vực ngoài Tam Viên  chính là các Thiên Cương Địa Sát. Và để phân định phương hướng họ đã  dùng 4 chòm sao rất lớn là :  

- Thanh Long nằm ở phía Đông  

- Bạch Hổ nằm ở phía Tây  

- Chu Tước nằm ở phía Nam  

- Huyền Vũ nằm ở phía Bắc  

Bốn chòm sao rất lớn này chứa 28 chùm sao nhỏ hơn gọi là Nhị Thập  Bát Tú, ở gần Hoàng Đạo và Xích Đạo. Thời cổ dùng làm tiêu chí để tham  chiếu với chuyển động của Mặt Trời (Hoàng Đạo), Mặt Trăng (Bạch Đạo)  và Ngũ Tinh Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ. Người xưa tin rằng Nhị Thập Bát Tú  này tuân lệnh Thượng Đế giám sát bốn phương, quyền năng ảnh hưởng  mạnh mẽ lên chốn phàm trần. Nhị Thập Bát Tú được tính theo chu kỳ xấp  xỉ 28 ngày của Mặt Trăng (đúng ra là 29, 2455 ngày), khởi đầu là sao Giốc  là sao mà cán chòm Bắc Đẩu Thất Tinh chỉ vào.  

Hình ảnh của 4 chòm sao Thanh Long, Chu Tước, Bạch Hổ và Huyền Vũ theo đúng bốn hướng Đông, Nam, Tây và Bắc.
GpYk7Wtn-mdlqg5cNK05I_XJ-kjvvbdFcClznf1lf7OqhPk4q2TMTBbdgL9PodVXQsMngChmvqq0VPrjAUAnYbgZ_t-zGhD0v0BYcHp8PHlbYIGfR0QVRTQuic7n2BmBAoEiSFhzNiy4OE-Jkiv39uhbtEK1PYbipUwIzYtQ5reyoe3CMrAAqXc-OecMIg
VQQxhTuilSqlLlcX3FXfIzoUs29JSERO89-1kLArqGHe9VVIwmHI9tkwI-vWYpkvweoojMhI_d7Zw-3zchuEog9wkDrzD1jpyjpdUgMTSM15Y_pD5yH_hQkpewJLRfwTnfuvFs_WwKk0j1ZJkA3armvgiT1aG3jWXrOXjlGm39GlHBkB0gSUCPaFseTgVg
Chòm Thanh Long nằm ở phía Đông gồm có 7 sao : Giốc, Cang, Đê,  Phòng, Tâm, Vĩ và Cơ. Tên đầy đủ là : Giốc Mộc Giảo (con Cá Sấu),  Cang Kim Long ( Rồng), Đê Thổ Bức (con Dơi), Phòng Nhật Thố (con  Thỏ), Tâm Nguyệt Hồ (con Cáo), Vĩ Hoả Hổ ( con Hổ) và Cơ Thuỷ Báo  (con Báo) . Đứng chính giữa là sao Phòng Nhật Thổ (con Thỏ) hay chính  là MÃO, cho nên MÃO nằm ở hướng CHÍNH ĐÔNG.  _fLYqCmFqi7Lf7FWJuGqXEODT2rm_4QnYSuRocf4Bghx6Duj3fYAFUadW_rWCM1SgLOG-ayiwDElPrwdt54fkafTxFkUsciHeSXjzdiSzxQz2BzOyQy_L4MzY76CTaZ8zbA83aAWOLkIllO81vorAOiDWRYVZMxCFGK7RaGdFYEF7qyn0go_Hp70F3Ut-Q
Chòm Chu Tước nằm ở phía Nam gồm 7 sao : Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh,  Trương, Dực và Chẩn. Tên đầy đủ là : Tinh Mộc Hãn (còn Bò), Quy Kim  Dương ( con Dê), Liễu Thổ Chương (con Cheo), Tinh Nhật Mã (con  Ngựa), Trương Nguyệt Lộc (con Hươu), Dực Hoả Xà (con Rắn) , Chẩn  Thuỷ Dẫn (Giun). Nằm chình giữa chòm Chu Tước là sao Tinh Nhật Mã,  chính vì thế mà NGỌ là cung nằm ở hướng CHÍNH NAM   9wc8fPbwoFGDAG0t-gLy6Kac7nYlPjgo9vIYCq-QLc_aonBOWqYNUZcUreFahhnvwAuT26YIH2h4EVq0zlP3ok4jCX9GL7AUsauGywSlhHMhELMSaZ1HARjsafkjcJiv56Br2IyHogELH38srOpOi209XiqXz8xFG95nRd8Q-mN6x1FZGJyp82yfvX_lyA
Chòm Bạch Hổ nắm ở phía Tây gồm 7 sao : Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất,  Chuỷ, Sâm. Tên đầy đủ là : Khuê Mộc Lang (chó sói), Lâu Kim Cẩu (chó  nhà), Vị Thổ Trệ (Chim Trĩ), Mão Nhật Kê (Gà), Tất Nguyệt Ô (Quạ),  Chuỷ Hoả Hầu (Khỉ) và Sâm Thuỷ Viên (Vượn) . Nằm chính giữa chòm  Bạch Hổ là sao Mão Nhật Kê, chính vì thế DẬU là cung ở phía CHÍNH  TÂY.

 LndyWaJTepxuDgZPHZoliu4xK3zXsWXfgM7ARkRIeHuOExe6-O0ksG3itQPuKFOI_mk2Pf52MDS7Q5SZQl9xNybXlgdxcZpDr-uSECvHUr5R0-Z6wBHq8ABUkHV52yHyS1oXJkp_O-lfzJGKn7ygFBAmNUly3qB24sFmaGV1GlnIBQyA95xeQgzEzSVNWA
Chòm sao Huyền Vũ nằm ở phía Bắc gồm 7 sao : Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư,  Nguy, Thất và Bích .Tên đầy đủ là Đẩu Mộc Giải ( Giải), Ngưu Kim Ngưu  (Trâu), Nữ Thổ Lạc(Nhím), Hư Nhật Thử (Chuột), Nguy Nguyệt Yến  (chim yến), Thất Hoá Trư (Lợn) và Bích Thuỷ Dư(Cừu) . Nằm chính giữa  chòm Huyền Vũ là sao Hư Nhật Thử, chính vì thế TÝ là cung nằm ở hướng CHÍNH BẮC.

Như vậy dựa vào Nhị Thập Bát Tú mà người xưa đã định ra phương  hướng lấy Trung Thiên Bắc Cực làm trung tâm, Nhị Thập Bát Tú làm chuẩn  để định ra bốn hướng Đông Tây Nam Bắc và Tứ Chính : Tý (Chính Bắc),  Ngọ (Chính Nam), Mão (Chính Đông) và Dậu (Chính Tây).  

Cửu Đại Diệu:  

Ngoài Nhị Thập Bát Tú, người Phương Đông cổ còn thấy 7 vị sao  sáng nhất trên bầu trời là Mặt Trời, Mặt Trăng và 5 hành tinh Kim Mộc  Thuỷ Hoả Thổ. Và họ tin rằng trên mỗi một vị sao có một vị Tinh Quân cai  quản, quyền năng ảnh hưởng rất lớn lên chốn phàm trần. Và họ gọi chung 7  sao này là Thất Đại Diệu (7 ngôi sao rất sáng).  

• Mặt Trời hay còn gọi là NHậT được cai quản bởi Thái Dương thần  quân, thần quân ngự ở cung Quang Minh.  

• Mặt Trăng hay còn gọi là NGUYệT được cai quản bởi Thái Âm thần  quân, thần quân ngự ở cung Quảng Hàn.  

• Sao Thuỷ hay còn gọi là Bắc Thần Nhất Khí Thuỷ Diệu được cai quản  bởi Thuỷ Diệu thần quân.  

• Sao Hoả hay còn gọi là Nam Ly Nhị Khí Hoả Đức được cai quản bởi  Hoả Đức thần quân.  

• Sao Thổ hay còn gọi là Trung Ương Ngũ Khí Thổ Tú được cai quản bởi  Thổ Tú thần quân  

• Sao Mộc hay còn gọi là Đông Chấn Tam Khí Mộc Đức được cai quản  bởi Mộc Đức thần quân  

• Sao Kim hay còn gọi là Tây Đoài Cửu Khí Thái Bạch được cai quản bởi  Thái Bạch thần quân hay Thái Bạch Kim Tinh. 

Ngoài ra còn có hai sao La Hầu và Kế Đô, hai sao này không có thật  trên bàu trời, nhưng do quan sát thấy Nhật Thực và Nguyệt Thực mà người  xưa tin rằng có hai hung thần La Hầu đã che mất Mặt Trời và Kế Đô đã che  mất Mặt Trăng. Chính vì thế hai hung thần cũng được cai quản bởi 2 vị Thần  Quân có quyền năng sánh ngang cùng Thất Đại Diệu. Hai cái tên La Hầu và  Kế Đô thật ra có nguồn gốc từ ấn Độ theo Phạn Lịch lưu truyền vào. Đại  Việt Sử ký Toàn Thư chép lại : người Phạn gọi Hung Thần che mất Mặt Trời  khi có Nhật Thực là Rahu và Hung Thần che mất Mặt Trăng khi có Nguyệt  Thực là Kethu. Rahu được hán hoá thành La Hầu và Kethu được hán hoá  thành Kế Đô.  

Thất Đại Diệu cùng với La Hầu, Kế Đô chính là Cửu Đại Diệu trong  Thiên Văn cổ Phương Đông. Nó là nguôn gốc cho việc năm nay hạn đến sao  gì ? “ Con trai rất sợ hạn La Hầu (do nó che Nhật), con gái rất sợ hạn Kế Đô  (do nó che Nguyệt) “ thực ra nguốn gốc Thiên Văn thì chẳng có vận hạn gì  hết, xét cho cùng đấy chỉ là thuật lừa người của bọn bói toán thuật sĩ mà  thôi.  

Tam Viên:  

Tam Viên chính là Tử Vi Viên, Thái Vi Viên và Thiên Thị Viên đóng  vai trò quan trọng nhất trong Thiên Văn cổ Phương Đông.  

Tử Vi Viên là nơi trung tâm của bầu trời, nơi ngự của sao Bắc Thần được  giới hạn bởi hai hàng Tử Vi Tả Viên và Tử Vi Hữu Viên. Phía Nam Tử Vi  Viên là Thái Vi Viên và phía Đông là Thiên Thị Viên. ce90fce6-f309-464b-b6e5-644513a6b467
50802426-40e9-454b-9383-999cfff020f6

Chúng ta có thể nhìn thấy Tử Vi Viên được bao bọc bởi Tử Vi Tả Viên (14)  và Tử Vi Hữu Viên (15). Chính giữa là chòm sao Tiểu Hùng (1) (sao Bắc  Thần là sao sáng nhất trong chùm Tiểu Hùng). Chòm Bắc Đẩu Thất Tinh  (17) trấn giữ ngay cửa ra vào của Tử Vi Viên. Từ đó chúng ta có thể thấy Tử 

Vi Viên chính là Tử Cấm Thành, nơi tôn quý nhất của bầu trời, là chốn Đế Toạ, nơi ở của Ngọc Hoàng Thượng Đế.

0ff153a0-7f4a-415d-b7fe-11fac925b0ea
74aab5ef-5b5c-41c9-88ec-0b0bf530e97d

Tam Viên đóng vai trò là Trung Tâm của bầu trời là khu vực của CHủ TINH. Còn sao Chổi là Tuệ Tinh hay còn gọi là sao Bột, sao Khí đóng vai  trò là KHáCH TINH. Khách Tinh đi vào địa phận Tam Viên đó là điềm Vua  bị tối hung. Điều này độc giả hoàn toàn có thể kiểm tra trong các sách về Lịch Sử ghi chép rất rõ ràng về việc Khách Tinh phạm Chủ.  

Ứng dụng của Thiên Văn:  

Hà Đồ, Lạc Thư và Thiên Văn:  

Nghiên cứu về Lý Học Đông Phương ai cũng biết đến Hà Đồ Lạc  Thư, nhưng việc lý giải cho sự xuất hiện của Hà Đồ và bản chất ý nghĩa của  nó còn quá mơ hồ và thần bí. Tác giả dựa trên những quan sát Thiên Văn rất  thuần tuý và tài liệu về Thiên Văn cổ xin được nêu ra ý kiến của mình : “ Hà  Đồ, Lạc Thư chính là những bản đồ mô tả bầu trời với các chùm sao  của người Phương Đông cổ “ 
b6c6d5a7-f8c7-4f6a-8de4-1bc88a66c3e3
Quan sát kỹ hình ảnh Hà Đồ và thử quan sát bầu trời ta có thể thấy  như sau: (dựa theo lịch kiến Tý)

- Hàng tháng vào ngày 1, 6, 11, 16, 26 ; hàng năm cứ vào tháng 1, tháng  6 quan sát thấy sao Thuỷ có sắc đen xám ở phương Bắc.  

-Hàng tháng vào ngày 2, 7, 12, 17, 22, 27 ; hàng năm cứ vào tháng 2,  tháng 7 quan sát thấy sao Hoả với sắc đỏ sậm ở phương Nam  

-Hàng tháng vào ngày 3, 8, 13, 18, 23, 28; hàng năm cứ vào tháng 3,  tháng 8 quan sát thấy sao Mộc sắc xanh ở Phương Đông  

-Hàng tháng vào ngày 4, 9, 14, 19, 24, 29; hàng năm cứ vào tháng 4,  tháng 9 quan sát thấy sao Kim sắc trắng ở Phương Tây  

-Hàng tháng vào ngày 5, 10, 15, 20, 25, 30; hàng năm cứ vào tháng 5,  tháng 10 quan sát thấy sao Thổ sắc vàng đục ở giữa trời.  

Như vậy Thiên Văn lí giải cặn kẽ và khoa học sự hình thành của Hà  Đồ và những kí hiệu trên Hà Đồ. 

3243ea02-e661-472a-b8cd-f935a2d26fae

Về Lạc Thư xin đọc giả quan sát kĩ hình ảnh của Tử Vi Viên và Thái Vi  Viên sẽ thấy.  

-Năm chấm Trắng ở giữa chính là toà Ngũ Đế trong Thái Vi Viên. -Một chấm Trắng tại phương chính Bắc là Sao Bắc Thần, phương chính  Nam là chùm Thiên Kỷ (9 sao), phương chính Tây là chùm Thất Công (7  sao), phương chính Đông là 3 sao trong chùm Câu Trần.  -Bên phải Thiên Kỷ là 2 sao Hổ Bôn, bên trái là 4 sao Tứ Phụ Bên phải  Bắc Thần là 6 sao Thiên Trù, bên trái bắc cực là 8 sao Hoa Cái .  c9841b61-b117-4294-b0c1-695ec8f7ece0

Như vậy Lạc Thư chẳng qua là bản đồ mô tả những chùm sao quan  trọng nhất của Tam Viên, Hà Đồ là mô tả sự chuyển động quy luật của Ngũ Đại Diệu Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ.  

Lý Học Đông Phương có Tam Thức đó chính là Thái ất, Độn Giáp và  Lục Nhâm, trong đó Thái ất chủ về Thiên, Độn Giáp chủ về Địa và Lục  Nhâm chủ về Nhân. Môn Thái ất ứng dụng Lạc Thư ghép vào 16 cung Thần,  dùng chuyển động của các Tinh Tú và Thiên Văn để dự đoán thịnh suy bĩ 

thái cát hung, bao trùm lên tất cả.  

Như vậy chúng ta càng thấy rõ một cội nguồn rất khoa học của  các môn Lý Học Đông Phương chính là THIÊN VĂN.  

Nguồn gốc 12 cung Địa Bàn của Tử Vi:  

Ngũ Đại Diệu có Mộc Tinh được người xưa chú ý nhất vì nó sáng  nhất và to nhất trong Ngũ Đại Diệu. Họ quan sát qua nhiều năm và xác định chính xác chu kỳ chuyển động của Mộc Tinh là 12 năm. Và họ quy ước như sau : Khi Mộc Tinh đi vào sao Hư Nhật Thử trong Nhị Thập Bát Tú thì đó là  năm Tý, 365 ngày sau thì Mộc Tinh đi đến sao Ngưu Kim Ngưu thì đó là  năm Sửu, cứ tính tiếp như vậy và sau xấp xỉ 12 năm (Thiên Văn hiện đại  tính toán lá 11.86 năm) thì Mộc Tinh quay trở lại sao Hư Nhật Thử. Và lấy  sao Bắc Thần làm tâm, căn cứ vào Nhị Thập Bát Tú và chuyển động của  Mộc Tinh mà người Phương Đông cổ chia bấu trời ra làm 12 cung bắt đầu từ 

Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Mộc Tinh  được gọi là Tuế Quân, vua của các Địa Chi. 12 cung số này đơn giản là biểu  thị cho chu kỳ chuyển động của Tuế Quân chứ không hề mang tính Ngũ Hành hay Âm Dương như các sách khác nói (nh Tý là thuỷ, Sửu là Thổ,...).  Chính vì thế có thể nói Tử Vi nó gần giống như môn Thái ất chú ý vào Thiên  Văn chứ Ngũ Hành Âm Dương không phải là phép luận Tử Vi, đấy chỉ là sự lẫn lộn khi đem râu ông nọ cắm cằm bà kia và gán cho Tử Vi.  

Sao Tử Vi:  

Trong Tử Vi Viên, chòm sao Tiểu Hùng có 5 sao (thực tế là 7, nhưng  ngày xưa chỉ ghi nhận có 5, đây là sự khác biệt so với Phương Tây). Trong  đấy sao Đế là sao sáng thứ hai trong chùm (sau sao Bắc Thần), sao này có  sắc đỏ tía, đó chính là sao Tử Vi trong môn Tử Vi vậy. Kiểm tra vào giờ Hợi  ngày 17 tháng 1 năm Canh Thân, và vào giờ Thân ngày 6 tháng 9 năm  Nhâm Tuất (bằng phần mêm Skymap) cho thấy sao Đế nằm tại cung Dần và  cung Tỵ, phù hợp hoàn toàn tuyệt vời với phép an sao Tử Vi trong môn Tử Vi.  

Đây chính là một bằng chứng hùng hồn cho thấy nguồn gốc của Tử Vi  chính là Thiên Văn.
d478bebc-0bf1-4aa8-9cab-ce5fb13a5c2b

Sao BETA của chìm Ursa Minor (Tiểu Hùng) chính là sao Tư Vi  2.3 Thiên Văn và vòng Thái Tuế:  

Thái Tuế là MỘC TINH:  

Quan sát Thiên Văn thấy Mộc Tinh chuyển động một chu kỳ hết  11,86 năm (hay xấp xỉ 12 năm). Lại căn cứ vào Nhị Thập Bát Tú, lấy sao  Bắc Thần làm tâm mà các nhà Thiên Văn cổ Phương Đông đã chia bầu trời  thành 12 cung lấy tên theo 12 con Giáp bắt đầu từ cung Tý. Và căn cứ vào  vị trí của Mộc Tinh mà định xem năm đó là năm gì Tý, Sửu hay Dần, Mão,...  . Mộc Tinh ở cung Tý thì đó là năm Tý. Thiên Văn học hiện đại đã khẳng  định và chứng minh chặt chẽ chu kỳ chuyển động của Mộc Tinh như trên là hoàn toàn chính xác và họ còn chỉ ra rằng Mộc Tinh có chiều chuyển động  từ Đông sang Tây. Thế nhưng tại sao trong thực tế quan sát từ Mặt Đất lại  thấy Mộc Tinh đi từ Tây sang Đông? Cái này chẳng có gì là khó hiểu, đấy  chẳng qua chỉ là chuyển động biểu kiến và chuyển động thực. Nếu chúng ta  đứng ở Mặt Trời và nhìn Mộc Tinh chuyển động thì sẽ thấy Mộc Tinh đúng  là chuyển động từ Đông sang Tây (cái này tức là chúng ta chọn Hệ Quy  Chiếu quán tính đứng yên - do Mặt Trời đứng yên so với các hành tinh trong  Thái Dương hệ). Nhưng nếu chúng ta đứng Trái Đất để nhìn Mộc Tinh thì  sẽ thấy Mộc Tinh đi từ Tây sang Đông 8 do Hệ Quy Chiếu bây giờ là Quả Đất, và hệ quy chiếu chuyển động).  

Như vậy Thái Tuế chẳng qua là Mộc Tinh. Mộc Tinh chuyển động  thực từ Đông sang Tây cho nên vòng Thái Tuế lúc nào cũng an theo chiều  thuận bất kể là Nam hay Nữ. Khoa học hiện đại còn chứng minh được Mộc  Tinh có trường Điện Tử ảnh hưởng lên Trái Đất chúng ta mạnh thứ hai chỉ 

sau Mặt Trời, lực hấp dẫn của nó tác động đến lên chúng ta chỉ thua Mặt  Trời và Mặt Trăng. Chính vì thế Mộc Tinh ảnh hưởng rất mạnh mẽ lên con  ngời, và chính vì điều đó mà vòng THÁI TUẾ nó ảnh hưởng cực mạnh lên  mỗi lá số của đương số.  

Khoa học hiện đại còn chứng minh được những đứa trẻ nào sinh ra  vào đúng chu kỳ hoạt động mạnh của Mộc Tinh (biểu hiện trong lá số Tử Vi  là cung Mệnh nằm trong tam hợp Thái Tuế) thì những đứa trẻ đó sau này  thường thong minh hơn người, bản tính kiêu ngạo thích làm lãnh đạo, làm  thầy, không chịu ở dưới người khác. Và đặc biệt là khả năng hung biện thiên  về Luật Pháp, Chính Trị, Ngoại Giao đồng thời cũng kèm theo một bản tính  cực kỳ bảo thủ, không thích người khác nói ra sai lầm của mình. Dưới tác  dụng của môi trường gia đình, giáo dục và những tính chất của Mộc Tinh  được bộc lộ rõ ràng. Nói như thế không có nghĩa là Mệnh không nằm trong tam hợp Thái Tuế thì không thể làm thầy làm Vua. Nên nhớ là ảnh hưởng to  lớn của Mộc Tinh nó có hai mặt, cũng như sao Thái Tuế trong Tử Vi là con  dao 2 lỡi. Nếu mệnh nằm trong tam hợp Thái Tuế lại them nhiều Cát Tinh  phù tá, Chính Tinh miếu địa (tức là được dạy dỗ trong môi trường tốt) thì  quả thật là những người có thiên hướng lãnh đạo, có thực tài. Ngược lại nếu  bị Hung Sát tinh xâm phạm (tức là môi trường giáo dục không tốt) thì những  bản chất như bảo thủ, cứng đầu của Thái Tuế sẽ bộc lộ rõ và đương số nếu  nói rõ hơn chính là những cá nhân cá biệt bảo thủ, miệng lưỡi điêu ngoa,  gian ác.  

Hơn nữa, ảnh hưởng của Mộc Tinh không chỉ cố định như vậy trong  lá số mà ảnh hưởng của nó di động theo từng năm (theo chu kỳ chuyển động  của Mộc Tinh). Để minh hoạ cho sự ảnh hưởng này, Tử Vi đặt ra sao Lưu  Thái Tuế. Lưu Thái Tuế rơi vào cung nào, tức là năm đó Mộc Tinh ảnh  hưởng rất mạnh lên cung đó và do sự ảnh hưởng này mà các sao tại bản  cung bị PHÁT ĐÔNG. Chính vì thế Thái Tuế và Lưu Thái Tuế phải được  xem xét rất kỹ càng khi xem Tử Vi, đặc biệt là khi xem Vận Hạn.  

Tóm lại có thể nói vòng Thái Tuế là sự mã hoá tuyệt vời của Tử Vi ảnh  hưởng của Mộc Tinh lên đương số 

Thái Tuế và các bộ sao liên quan:  

Ta đã nói ở trên về cách an Thái Tuế theo chi Năm Sinh. An theo  Năm Sinh còn có bộ Long Phượng, bộ Đào Hồng, bộ Khốc Hư Tang Mã.  Vậy những sao này có liên quan gì với nhau ? Trước hết hãy nhìn vào  cách an các sao đó.  

Thái Tuế chẳng qua cách an là : lấy cung Tý kể là năm Tý, đếm theo  chiều thuận đến năm sinh thì an Thái Tuế. Long Trì thì kể cung THÌN là  năm Tý, đếm theo chiều thuận đến năm sinh. Một cái nhìn ban đầu cho thấy Thái Tuế và Long Trì luôn Tam Hợp nhau. Nhưng tại sao lại là cung  THÌN? Bởi vì ngày xưa ngày Đông Chí là lúc khí Dương bắt đầu sinh,  Vua vào chính xác ngày Đông Chí phải làm lễ tế trời. Cho nên xác định  đúng ngày Đông Chí là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của Sử Quan. Và  vào ngày ĐÔNG CHÍ, Mặt Trời mọc lên ở cung THÌN, chính vì thế mà  Long Trì được khởi từ cung Thìn. Bản thân sao Long Trì không phải là  một sao có thật trên bầu trời, nó chỉ là 1 cách để Tử Vi mô tả cho vị trí  ảnh hưởng của Thái Tuế. Mệnh nằm trong Tam Hợp Thái Tuế thì sẽ có  Long Trì, và như đã nói ở trên về ảnh hưởng của Mộc Tinh, sao Long Trì  tượng là sự sang trọng, quý hiển của 1 người lãnh đạo, của 1 ông Vua  (Thái Tuế là Vua cai quản 1 năm). Từ cách an như vậy có thể thấy Long  Trì tượng cho sự đài các cao sang. Thái Tuế Long Trì nếu đi kèm với Cát  Tinh thì chủ cho sự thành công, sang trọng, đài các, ngược lại nếu đi  kèm Không Kiếp, Thiên Hình, Kiếp Sát,... thì bản chất bảo thủ, thủ đoạn  của Thái Tuế bộc lộ rõ ràng, và Long Trì chỉ là tượng cho sự lãnh đạo  của một tay anh chị, Mafia có đẳng cấp mà thôi. Sự đài các sang quý của  Long Trì bị mất hẳn. Long Trì thực sự phát huy hết tác dụng của nó (tức  là ảnh hưởng của Mộc Tinh là ảnh hưởng tích cực) khi đi kèm bộ Xương  Khúc, bộ Thai Cáo, bộ Khôi Việt, Khoa Quyền Lộc và đặc biệt là sao  Quốc ấn (chủ ấn tín lãnh đạo). Từ cách an của Long Trì (là từ cung Thìn,  nơi Mặt Trời mọc vào ngày Đông Chí) có thể thấy sao Long Trì đặc biệt  thích hợp cho hai Chính Tinh : Tử Vi và Thái Dương.  

Bây giờ chúng ta xét đến bộ Khốc Hư. Khốc Hư lấy cung Ngọ làm  năm Tý, Khốc theo chiều nghịch, Hư theo chiều thuận đến năm sinh.  Như vậy có thể thấy như sau: bộ Khốc Hư này an ở vị trí khởi đầu xung  với Thái Tuế. Nhưng để ý kỹ sẽ thấy, Thiên Hư luôn xung chiếu với Thái  Tuế, còn Thiên Khốc thì không? Khoa học hiện đại về Tâm Lý học có nói : những đứa trẻ nào sinh ra vào những lúc xung với ảnh hưởng của  Mộc Tinh (tức là nghịch với chu kỳ hoạt động của Mộc Tinh) thì thường  có hai xu hướng tâm lý như sau:  

 + Buồn rầu, bất mãn và cam chịu nó ở trong lòng  

 + Buồn rầu, bất mãn và ngấm ngầm phấn đấu để vươn lên, và sự vươn lên này thường là bất chấp thủ đoạn kể cả gây đau khổ cho người  khác.  

Như vậy bộ Khốc Hư chính là sự mã hoá cho 2 xu hướng trên.  Người nào cung Mệnh có Thiên Hư mà không có Thiên Khốc (Thiên  Khốc chiếu sẽ xét sau) thì chắc chắn là người có tam lý buồn, và cam  chịu, bất mãn. Ngược lại nếu có Thiên Khốc sẽ là con người bất mãn,  hay buồn nhưng rất có nghị lực, sẵn sàng đạp lên tất cả để đi đến thành  công. Chính vì thế là Tử Vi có cách Mã Khốc Khách tượng là chịu khó,  nghị lức chứ còn Mã Hư Khách không thành cách, và cũng thấy là Mã  Khốc Khách chỉ tính khi cả 3 sao này đồng cung. Khi Khốc Hư đồng  cung, thì con người hay bị hai luồng tư tưởng chi phối mạnh mẽ, lúc thì  kiên gan phấn đấu, lúc thì chán nản, chính vì lẽ đó mà chỉ khi gặp Vận  tốt và thường là vào Hậu Vận khi đã vào tuổi “Tri Thiên Mệnh“, khi mà  sự đấu tranh tư tưởng đã ngã ngũ thì mới thành công. Mà cũng chỉ thành  công khi Vận tốt và bản thân bộ Khốc Hư có nhiều Cát Tinh phù trợ. Tử Vi có câu phú : “Khốc Hư Tý Ngọ, ăn nói đanh thép, phát về hậu vận“ và  cũng không biết bao nhiêu cách lý giải này nọ, nhưng thật ra là họ đều lý  giải sai hết, một lý giải hoàn toàn Cảm Tính. Khốc Hư mà không xét đến  Thái Tuế là một sai lầm nghiêm trọng.  

Một điều rất thú vị là sao Phượng Các khởi từ cung Tuất và đi  ngược. Nó luôn tam hợp với sao Thiên Khốc. Như vậy là ta càng thấy rõ sự khác nhau giữa Khốc và Hư. Sách Tử Vi có nói Long Phượng là Đài  Các Tinh, tính chất như nhau. Quan niệm đó là thiếu chính xác. Long Trì  là sự đài các của Thái Tuế, một sự đài các hiển nhiên. Ngược lại Phượng  Các là sự mô tả cho sự thành công nhờ nỗ lực không ngừng (Thiên Khốc  xung Thái Tuế và đi ngược), sự đài các sang trọng sau một quá trình  phấn đấu nỗ lực vất vả , có thể ví Long Trì như sự sang trọng đài các của  vua Lê Thánh Tông, còn Phượng Các là sự sang trọng đài các của vua Lê  Thái Tổ. Chính vì thế nếu Mệnh nằm trong tam hợp Thái Tuế mà có  thêm sao Thiên Khốc , tức là Thiên Khốc đồng cung hay tam hợp với  Thái Tuế , lại có thêm nhiều Cát Tinh và đặc biệt là chính tinh thủ Mệnh  là các bộ sau : Tử Sát, Nhật Nguyệt thì con người này có tài năng phi  thường, nghị lực phấn đấu không mệt mỏi, cách cục của các vị Vua khai  sáng một triều đại, hay của một người khai sáng một chế độ (dĩ nhiên là  cần phải kèm thêm nhiều Cát Tinh và Vận Hạn đến cung mà những tính  chất tiềm tàng của Tử Vi, Nhật Nguyệt được bộc lộ toàn bộ). Cũng tương  tự như Long Trì, Phượng Cách chỉ thực sự phát huy là đài các sang quý  khi không bị Hung Sát Tinh như Không Kiếp Thiên Hình Kiếp Sát xâm  phạm.  

Nói đến bộ Khốc Hư không thể không nhắc đến Thiên Mã. Thiên  Mã chỉ thực sự chỉ sự nghị lực, nỗ lực phấn đấu khi nó có Thiên Khốc  chiếu hay đồng cung. Nhưng khi 4 sao Tang Môn, Thiên Mã, Thiên  Khốc, Thiên Hư hội hợp đầy đủ thì là cách cục của những người có nội  tâm thường đấu tranh dữ dội giữa việc cam chịu hay phải phấn đấu,  chính vì thế mà nét mặt họ thường ít khi vui vẻ. Bộ này khi đi kèm Cát  Tinh thường là những người có nghị lực, phấn đấu (nhưng nếu dù có Cát  Tinh mà mệnh chỉ có sao THIÊN HƯ thì cũng chỉ là người lúc nào cũng  kêu ca, chán nản, nghị lực phấn đấu kém). Ngược lại khi bộ Tang mã Khốc Hư đi kèm Cát Tinh mà có lẫn Hung Tinh vào đó đặc biệt là Lục  Sát Tinh, những người này là những người dám nghĩ dám làm, sẵn sàng  đạp lên tất cả để đi đến thành công. Bộ Tang Mã Khốc Hư phải lấy nòng  cốt là hai sao Khốc Hư mà đoán.  

Sau cùng xét đến bộ Đào Hồng. Thái Tuế khởi từ Tý, Hồng Loan  khởi từ Mão như vậy Hồng Loan luôn nằm trong thế tam hợp Thiếu Âm,  một sự nhường nhịn, nhu thuận. Do vậy tính chất của Hồng Loan là sự dịu dàng nhu thuận kín đào nhưng “Lạt mềm buộc chặt“. Còn Đào Hoa  an theo tam hợp tuổi cứ đứng trước cung Tứ Sinh của Tam Hợp tuổi 1  cung, tức là nó vượt lên trên Thái Tuế 1 cung. Cho nên Đào Hoa tượng  cho sự phô trương, bộc lộ hết ra ngoài, sớm nở nhưng cũng sớm tàn. Do  tính chất của Đào Hồng là sự duyên dáng nó chính là sự mô tả cho  những người sinh ra trước và sau chu kỳ ảnh hưởng của Mộc Tinh.  Những người sinh ra trước chu kỳ của Mộc Tinh là người hay khoe  khoang, cậy tài (Thiếu Dương) ; còn sinh ra sau chu kỳ của Mộc Tinh là  những người có bản chất kín đáo, ít nói, nhưng rất thâm thuý và sâu sắc.  Hồng Loan nếu gặp các sao Quyền Lực như Đầu Quân, Hoá Quyền,  Binh Hình Tướng ấn và đóng tại cung Mệnh, Quan là cách cục của  những người biết suy nghĩ, biết che giấu thủ đoạn, cách cục của những  chính khách có tài. Đào Hoa khi đóng cung Quan tượng là sự lập nghiệp  sớm nhưng nếu không có Cát Tinh thì cũng chóng tàn. Đặc biệt Đào Hoa  do bản tính là khoe hết sắc đẹp ra cho nên khi đi kèm Dâm Tinh sẽ thể hiện tính dâm rất mạnh.  

Thiên La và Địa Võng:  

Ngày xưa việc xác định chính xác ngày Đông Chí là việc làm quan  trọng bậc nhất của Thiên Quan (Quan coi về Thiên Văn, Lịch số). Sử Ký chương Thiên Quan có nói : Việc của Thiên Quan là xác định chính xác  ngày Đông Chí, đó là ngày nhất dương sinh, vạn vật bắt đầu nảy nở, vào  ngày này Vua phải làm lể tế trời. Xác định sai chém không tha.  

Ngày Đông Chí là ngày lạnh nhất trong năm đó, khí Âm cực thịnh và  khí Dương bắt đầu sinh ra. Ngày này được xác định bằng việc Mặt Trời mặt  lên từ cung THìN, hay nói khác đi là Ngày ngắn nhất và Đêm dài nhất. Do  vào mùa đông ngày ngắn đêm dài cho nên vào ngày Đông Chí phải rất lâu  mới thấy được Mặt Trời mọc lên. Và người xưa tin tưởng rằng ở cung Thìn  có vị thần dùng lưới nhốt Mặt Trời lại kéo xuống cho nên mãi về sau Mặt  Trời mới mọc lên được, vị thần này là Thiên Cương và cung Thìn gọi là  cung THIÊN LA (lưới trời) là vì thế.  

Ngày Hạ Chí là lúc khí Dương cực thịnh và khí Âm bắt đầu sinh ra,  ngày dài nhất và đêm ngắn nhất trong năm. Vào ngày đó Mặt Trời lặn ở cung Tuất, cho nên người xưa tin rằng có 1 vị ác thần khác ở cung Tuất làm  võng đất xuống để không cho Mặt Trời lặn (nói khác đi là ngày Hạ Chí đặc  biệt ở những nước Ôn đới đến 7,8 giờ tối vẫn còn sáng rõ). Vị thần này gọi  là Địa Sát (hay Địa Hộ) và cung Tuất gọi là cung Địa Võng.  Như vậy Thiên La Địa Võng là hiện tượng hoàn toàn thiên nhiên liệu Kình  Dương hay Thiên Hình có thể là đao chém đứt lưới La Võng như sách vở hay nói hay không???  

Và từ đó ta thấy La Võng mang tính chất giam giữ kìm hãm, phát về hậu  vận, Mệnh toạ La Võng mà có thêm hung sát tinh thì rất dễ chết trong tù,  vận hạn có La Võng thì khó làm việc lớn. Nhưng La Võng nó chính là dấu  mốc cho một sự thay đổi của thời tiết, âm dương, ngũ hành. Chính vì thế Hạn hay Mệnh có La Võng mà hội tụ rất nhiều Cát Tinh thì khoảng về sau sẽ phát giống như Cá chép vượt Vũ Môn mà Hoá Rồng.

Bài viết cùng chủ đề

Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc (Quẻ số 9 trong Kinh Dịch) Có Ý Nghĩa Tốt Hay Xấu? Luận giải chính xác dể hiểu

Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc (Quẻ số 9 trong Kinh Dịch) Có Ý Nghĩa Tốt Hay Xấu? Luận giải chính xác dể hiểu

Ngọc Phương
Ngọc Phương 1 năm trước

Ý Nghĩa Quẻ Số 9 Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc Hung Hay Cát: Luận giải chi tiết

Quẻ Trạch Thủy Khốn (Quẻ số 47 trong Kinh Dịch) Có Ý Nghĩa Tốt Hay Xấu? Luận giải chính xác dể hiểu

Quẻ Trạch Thủy Khốn (Quẻ số 47 trong Kinh Dịch) Có Ý Nghĩa Tốt Hay Xấu? Luận giải chính xác dể hiểu

Ngọc Phương
Ngọc Phương 1 năm trước

Ý Nghĩa Quẻ Số 47 Quẻ Trạch Thủy Khốn Hung Hay Cát: Luận giải chi tiết

Thập Lục Hoa Giáp là gì? Bảng Đối Chiếu Thập Lục Hoa Giáp Ngũ Hành

Thập Lục Hoa Giáp là gì? Bảng Đối Chiếu Thập Lục Hoa Giáp Ngũ Hành

Ngọc Phương
Ngọc Phương 1 năm trước

Thập Lục Hoa Giáp là gì? Bảng Đối Chiếu Thập Lục Hoa Giáp Ngũ Hành cập nhật 2024